Home » biendao
Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019
Hướng tới một kế hoạch chi tiết cho bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (phần 2)
Theo quan điểm của một nhóm chuyên gia về Biển Đông thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), để có một COC hiệu quả, Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN cần thống nhất một số nội dung sau:
Một là, nhất trí duy trì quyền tự do hàng hải và các chuyến bay qua lại ở Biển Đông theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được công nhận rộng rãi, trong đó có cả UNCLOS 1982.
Hai là, cam kết giải quyết tranh chấp, xử lý các bất đồng liên quan tới quyền tài phán trên biển, đáy biển và không phận bằng biện pháp hòa bình; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; tự kiềm chế và cân nhắc thấu đáo quyền của các bên khác khi tiến hành các hoạt động trên Biển Đông.
Ba là, không được chiếm đóng, cư ngụ hoặc xây dựng cơ sở trên các cấu trúc địa chất hiện không có người ở.
Bốn là, cam kết cải thiện sự an toàn trong di chuyển, thông tin liên lạc, tìm kiếm và cứu nạn trên Biển Đông, cụ thể là: (1) Nhất trí bắt đầu các cuộc đàm phán về một bộ quy tắc quản lý giao thức liên lạc giữa các tàu hải quân và tàu thực thi pháp luật chạm trán trên biển nhằm giảm thiểu nguy cơ xảy ra sự cố va chạm và giảm bớt tính nguy hiểm của những vụ việc đã xảy ra. (2) Thiết lập một chương trình trong khuôn khổ Quỹ hợp tác hàng hải ASEAN - Trung Quốc và các Quy tắc quốc tế phòng ngừa va chạm trên biển (COLREGS) để huấn luyện các ngư dân trong khu vực; trang bị cho các tàu đánh cá thiết bị sóng vô tuyến hiện đại và máy thu phát tự động nhận dạng (AIS). (3) Theo đuổi việc thành lập các cơ chế xử lý các sự cố liên quan đến công dân, tàu thuyền hoặc máy bay của các bên nhằm tránh làm trầm trọng thêm tranh chấp. Những cơ chế như vậy có thể bao gồm các đường dây nóng giữa các bộ, ngành liên quan, nhóm công tác kỹ thuật hoặc các nhóm chuyên gia của các nước để giảm thiểu các yếu tố gây xung đột. (4) Khuyến khích các hoạt động huấn luyện và diễn tập chung giữa các cơ quan thực thi pháp luật trên biển của các nước trong khu vực để thúc đẩy các thông lệ tốt nhất và giảm thiểu nguy cơ xảy ra sự cố trên biển, làm việc với những người chủ trì cuộc họp giữa các cơ quan bảo vệ bờ biển châu Á để xây dựng một bộ nguyên tắc quản lý hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật trên Biển Đông. (5) Thiết lập một cơ chế đối thoại để thăm dò sự hợp tác tạm thời và thiết thực trong công tác tìm kiếm và cứu nạn bất chấp những khoảng cách hoặc sự chồng lấn có thể có giữa các Khu vực tìm kiếm và cứu nạn trên biển hay các Khu vực tìm kiếm và cứu nạn trên không được tuyên bố. Lưu ý rằng, sự an toàn mạng sống của con người trên biển là mối quan tâm chung và tối thượng đối với tất cả các bên.
Năm là, thăm dò các cách thức và biện pháp hợp tác để giải quyết vấn đề tội phạm xuyên quốc gia trên biển, bao gồm nạn cướp biển, buôn bán ma túy, buôn lậu vũ khí, buôn bán người và đánh bắt cá trái phép.
Sáu là, hợp tác trong nghiên cứu khoa học trên biển, cụ thể: (1) Từng quốc gia ven Biển Đông cần đồng ý cho và cấp phép tiến hành nghiên cứu khoa học trên biển trong phạm vi 200 hải lý tính từ bờ biển của họ, trong khi chờ đợi sự phân định ranh giới cuối cùng đối với các tuyên bố chủ quyền trên biển. Trong các khu vực chồng lấn, trừ phi các bên đạt được một thỏa thuận song phương từ trước, một đường trung tuyến sẽ được sử dụng để xác định nước nào có quyền cấp phép tạm thời cho các nghiên cứu khoa học trên biển. (2) Các nước nhất trí rằng, việc cấp phép tạm thời cho hoạt động nghiên cứu khoa học trên biển, cũng như việc tiến hành những dự án như vậy, sẽ không gây tác động, ảnh hưởng tới các tuyên bố lãnh thổ hoặc việc phân định ranh giới cuối cùng trên biển và không được phép coi đó là sự công nhận đối với tuyên bố lãnh thổ của các bên khác. (3) Cấp phép cho nghiên cứu khoa học trên biển tại những khu vực tạm thời này trong các tình huống thông thường. Các bên tuyên bố chủ quyền có thể từ chối cấp phép trong các trường hợp được quy định theo Điều 246 của UNCLOS 1982, bao gồm các dự án gây ảnh hưởng đến việc thăm dò hoặc khai thác tài nguyên, sử dụng chất nổ hoặc các chất có hại cho môi trường, hoặc liên quan đến việc xây dựng hay vận hành các cấu trúc nhân tạo. (4) Phối hợp các chuyến nghiên cứu khoa học chung trên biển trong khu vực Biển Đông với sự tham gia của các chuyên gia đến từ tất cả các bên tuyên bố chủ quyền. (5) Mỗi bên tuyên bố chủ quyền cần tạo điều kiện cho các chuyến thăm của các chuyên gia từ các bên tuyên bố khác để tiến hành nghiên cứu tại các đảo và rạn san hô mà nước đó chiếm giữ, có sự chú ý thích đáng đến sự cần thiết phải hạn chế việc tiếp cận các khu vực quân sự nhạy cảm. Các nước tuyên bố chủ quyền cần phải nhất trí rằng các chuyến đi nghiên cứu sẽ được tổ chức mà không gây ảnh hưởng đến những tuyên bố chưa được giải quyết của các bên khác và việc tham gia đó sẽ không có nghĩa là cá nhân các nhà nghiên cứu hoặc các chính phủ của nước yêu sách công nhận các tuyên bố chủ quyền này. (6) Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo khoa học được tất cả các chính phủ láng giềng ủng hộ với sự tham gia của các chuyên gia đến từ khắp nơi trong khu vực và trên thế giới. (7) Đầu tư, cả với tư cách cá nhân các chính phủ lẫn tư cách một nhóm, vào các chương trình nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của môi trường biển và nghề cá cũng như mối đe dọa đối với chúng như là các nguồn tài nguyên chung có thể tái tạo. (8) Hợp tác trong ngành khảo cổ học trên biển và khuyến khích các cuộc hội thảo và nghiên cứu lịch sử chung nhằm mở rộng sự hiểu biết của người dân về Biển Đông như là một không gian và nguồn lực chung được các dân tộc trong khu vực và trên thế giới sử dụng trong cả thiên niên kỷ.
Bảy là, nhất trí khởi động ngay các cuộc đàm phán về bảo tồn và bảo vệ môi trường, quản lý nghề cá, phát triển dầu khí và các nỗ lực phát triển kinh tế biển khác ở Biển Đông giữa các bên bị ảnh hưởng.
Tám là, nhất trí rằng trong trường hợp xảy ra tranh cãi về cách diễn giải hay thực hiện thỏa thuận này, bất kỳ bên nào cũng có thể yêu cầu thành lập một ủy ban dàn xếp, điều tra hoặc hòa giải theo quy trình như sau: (1) Mỗi bên tham gia thỏa thuận sẽ cử 4 chuyên gia về các vấn đề hàng hải để tham gia vào một ủy ban dàn xếp, điều tra hoặc hòa giải. (2) Một bên tranh chấp có thể yêu cầu thành lập ủy ban một khi các cuộc đàm phán trực tiếp không thể giải quyết vấn đề. Việc tham gia quá trình dàn xếp, điều tra hay hòa giải sau đó sẽ là bắt buộc đối với tất cả các bên tranh chấp. (3) Mỗi bên tranh chấp sẽ chỉ định 2 chuyên gia từ danh sách các thành viên tiềm năng hiện thời để tham gia ủy ban. (4) Một khi tất cả các bên tranh chấp đã lựa chọn xong, những ủy viên được chỉ định sẽ lựa chọn một chuyên gia để làm chủ tịch ủy ban. (5) Ủy ban này sẽ quyết định quy trình của riêng họ để điều tra và dàn xếp tranh chấp, trừ phi các bên tranh chấp đã nhất trí về một quy trình từ trước. (6) Ủy ban này sẽ đưa ra một quyết định nêu rõ các kết luận của họ về tất cả những câu hỏi về thực tế hoặc pháp luật liên quan tới tranh chấp và đưa ra các khuyến nghị cho một giải pháp dàn xếp giữa các bên.
Chín là, mời các nước bên ngoài, các tổ chức quốc tế và các bên liên quan khác xác nhận thỏa thuận này.
Trên đây là những khuyến nghị do nhóm chuyên gia thuộc CSIS đưa ra, cần phải nói thêm rằng, đây là nhóm gồm những chuyên gia ưu tú về luật biển, quan hệ quốc tế và môi trường biển đến từ Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Vì vậy, những nội dung mà các chuyên gia trên đưa ra là rất đáng tin cậy, khả thi, trong đó có nhiều nội dung rất thiết thực nên các bên tham gia COC có thể tham khảo để vận dụng trong tiến trình đàm phán xây dựng COC. Điều quan trọng nhất là, các bên tham gia phải toàn tâm, toàn ý, có quan điểm, ý chí chính trị đúng đắn để đạt được một COC thực chất, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, tiếp đó, đưa COC đi vào vận hành trên thực tiễn, qua đó thực sự đóng góp cho hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông nói riêng và khu vực nói chung.Chứng minh cho nhân loại thấy rằng, ai đó nói “Thái Bình Dương mà chẳng thái bình” chẳng qua chỉ là phát ngôn nhất thời, kém hiểu biết.

- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
- 心系家乡海洋岛屿
- 越南同东盟各国一道携手共建强大共同体
- Việt Nam nỗ lực cùng ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh
- 第55届东盟外长会:团结、合作、责任,保持中心地位
- AMM 55: Đoàn kết, trách nhiệm trong hợp tác, giữ vững vai trò trung tâm
- 越南加入东盟27周年:强化越南在区域的核心作用
- 27 năm Việt Nam gia nhập ASEAN: Khẳng định vai trò trung tâm
- 越南向东盟与印度特别外交部长会议传递和平与合作信息
- Việt Nam gửi thông điệp hòa bình, hợp tác tới Hội nghị ASEAN-Ấn Độ
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét