Home » biendao
Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2019
Quá trình ASEAN tham gia giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông (phần 2)
BDN - Năm 2013, trước những biến chuyển không mấy khả quan trong việc thông qua kênh ngoại giao để giải quyết tranh chấp bãi cạn Scarborough với Trung Quốc, Philippines đã sử dụng con đường đấu tranh pháp lý, chính thức đệ trình văn bản khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài thường trực của Liên Hợp Quốc (PCA) vào ngày 22/1/2013. Trung Quốc không chỉ bác bỏ đòi hỏi của Philippines, từ chối tham gia vụ kiện, mà còn gây áp lực ngoại giao lên các nước ASEAN nhằm vận động Philippines từ bỏ hành động của họ để đổi lấy việc tái khởi động các cuộc đàm phán về COC. Song hành động trên của Trung Quốc, trong đó có cả sự gây áp lực về kinh tế và ngoại giao đối với Philippines đã không hiệu quả. Ngược lại, hành động pháp lý của Philippines đã buộc Trung Quốc phải điều chỉnh thái độ, đồng ý tái khởi động tiến trình xây dựng COC. Trung Quốc thống nhất tổ chức các cuộc tham vấn về việc thúc đẩy COC giữa ASEAN và Trung Quốc vào giữa tháng 9/2013 tại thành phố Tô Châu. Cuộc họp này đã thống nhất được một kế hoạch cho năm 2013 - 2014 làm việc về DOC và phê duyệt nhóm chuyên gia để hỗ trợ cho tiến trình COC và đồng ý nhóm họp tại Thailand vào năm 2014. Như vậy, mặc dù Trung Quốc dường như không muốn đàm phán chính thức về COC, nhưng họ cũng đã bắt đầu phải đề cập đến tiến trình này hòng giảm bớt sức ép quốc tế lên bản thân
Năm 2014, ASEAN đứng trước 2 sự kiện gây sức ép đáng kể lên tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông do những hành động vừa mở rộng phạm vi “chủ quyền” vừa mang tính đe dọa của Trung Quốc đối với các nước, đó là:
Thứ nhất, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động của tàu thuyền ngư dân nước này ở vùng biển xung quanh đảo Natuna thuộc chủ quyền của Indonesia, nhưng Trung Quốc vẫn cho rằng vùng biển này nằm trong “đường 9 khúc” phi lý do họ tuyên bố. Indonesia từ trước đến nay liên tục đóng vai trò dẫn đầu như một trung gian hòa giải độc lập trong việc thúc đẩy đàm phán về một COC. Tuy nhiên, trước những động thái của Trung Quốc, buộc Indonesia ngay từ đầu năm 2014 đã chính thức bác bỏ yêu sách “đường 9 khúc” của Trung Quốc, bao gồm cả vùng biển rộng lớn xung quanh đảo Natuna và tuyên bố nước này có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc. Tuyên bố của Indonesia có khả năng làm cho cục diện Biển Đông nói chung, tiến trình đàm phán để có một COC nói riêng trở nên khó dự đoán. Bởi hành động mới của Indonesia một mặt có thể tạo ra sức ép mới buộc Trung Quốc phải có những thỏa hiệp, ngồi vào bàn đàm phán, mặt khác có thể khiến Trung Quốc “điên tiết” lên trong yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông mà hành động cứng rắn, kể cả áp đặt vùng nhận diện phòng không (ADIZ) như họ đã làm ở vùng biển Hoa Đông.
Thứ hai, đầu tháng 5/2014, Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt Nam và vấp phải sự phản ứng, đấu tranh quyết liệt của phía Việt Nam. Sự kiện đã buộc ASEAN phải có những nỗ lực đáng kể trong ngăn ngừa xung đột leo thang ở Biển Đông. Ngay sau sự kiện, vào ngày 10/5/2014, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 24 nhóm họp tại thủ đô Nay Pyi Taw của Myanmar, ASEAN đã đưa ra “Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN về tình hình hiện nay ở Biển Đông”, trong đó “bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra ở Biển Đông…” và “…yêu cầu các bên liên quan thực hiện kiềm chế và tránh các hành động có thể làm phương hại đến hòa bình và ổn định của khu vực; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Tiếp đến, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 47 (AMM-47) tổ chức tại Myanmar tháng 8/2014 cũng ra “Tuyên bố chung của AMM-47”, trong đó vấn đề Biển Đông được nêu bật với nhiều chi tiết mới, cụ thể và từ ngữ khá cứng rắn hơn so với các thông cáo chung. Bản tuyên bố khẳng định rằng “chúng tôi tiếp tục quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông và khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông”; yêu cầu “giải quyết tranh chấp qua các biện pháp hòa bình, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, bao gồm đối thoại thân thiện, tham vấn và thương lượng, phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982” và “Chúng tôi nhất trí tăng cường tham vấn với Trung Quốc về các biện pháp và cơ chế nhằm bảo đảm và tăng cường hơn nữa việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC một cách tổng thể, nhất là Điều 4 và Điều 5, cũng như đàm phán thực chất để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC”. Như vậy, tuyên bố chung lần này tuy không trực tiếp chỉ đích danh Trung Quốc gây căng thẳng mới ở Biển Đông, nhưng cũng ám chỉ rằng những hành động gần đây của Trung Quốc “làm phương hại đến hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông”. Hơn nữa, lần này, ASEAN muốn gửi đi một thông điệp “đàm phán thực chất” với Trung Quốc.
Hai sự kiện trên đã thúc đẩy ASEAN hành động mạnh mẽ trong năm 2014 và có thể nói, sau 22 năm, kể từ năm 1992, ASEAN mới có một Tuyên bố chung mới về Biển Đông như tuyên bố tháng 5/2014 đề cập khá nghiêm túc, chi tiết và “quan ngại sâu sắc” về những diễn biến mới ở Biển Đông liên quan đến hành động hạ đặt trái phép giàn khoan Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tuy nhiên, những nội dung của các tuyên bố trên cũng vẫn chưa có những “đột phá” mới so với các tuyên bố mà ASEAN đã từng đưa ra từ trước đó.
Sang năm 2016, PCA ra phán quyết lịch sử vào ngày 12/07/2016 về vụ kiện Trung Quốc của Philippines. Phán quyết của PCA đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách phi lý của Trung Quốc về chủ quyền trên Biển Đông theo “đường 9 khúc”; cùng với đó là “làn sóng” dư luận mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích thái độ “bất tuân luật pháp” của Bắc Kinh. Tình hình trên đã tạo sức ép đáng kể buộc Trung Quốc phải điều chỉnh hành vi, họ quay lại “tham vấn” ASEAN về COC. Công bằng mà nói, dù phán quyết của PCA không có tác dụng buộc Trung Quốc phải “thi hành bản án” và cũng không có ai “giám sát thi hành án”, nhưng đây mới là tác nhân có sức nặng buộc Trung Quốc phải nghiêm túc hơn đối với tiến trình xây dựng COC mà họ vốn dĩ không mặn mà.
Trong nửa đầu năm 2017, các quan chức ASEAN và Trung Quốc đã gặp gỡ nhau 3 lần để thảo luận về COC. Đó là tại cuộc họp Nhóm công tác chung ASEAN - Trung Quốc lần thứ 19 về thực hiện DOC (JWG-DOC) ở Bali, Indonesia ngày 27/02/2017, hai bên nhất trí về phác thảo cơ bản dự thảo khung COC. Sau đó, ngày 30/03/2017, tiếp tục được thảo luận tại JWG-DOC lần thứ 20 ở Siem Reap, Campuchia. Dự thảo này sau đó đã được sửa đổi đôi chỗ trong các cuộc họp SOM-DOC ở Quý Dương, Trung Quốc vào tháng 5/2017 và đến tháng 8/2017, dự thảo khung COC mới được thông qua.
Sang năm 2018 và 2019, ASEAN và Trung Quốc mới đi vào thảo luận và đàm phán nội dung chi tiết của COC mà cho đến nay, giới học giả vẫn chưa nhận được điều gì khả quan từ bản Quy tắc này ngoại trừ lời hứa của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường rằng, COC có thể ra đời trong vòng 3 năm nữa. Trong khi diễn biến tình hình thực tế trên Biển Đông vẫn chưa giảm nguy cơ gây bất ổn cho khu vực.
Ngoài việc tạo dựng DOC và tiến tới COC, ASEAN và các nước thành viên đã sử dụng các kênh đối thoại, hợp tác song phương, đa phương khác nhau để thúc đẩy quá trình “định chế hóa” các cơ chế trên. ASEAN đã tranh thủ Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) để thúc đẩy ngoại giao phòng ngừa, trong đó có vấn đề Biển Đông. Từ Hội nghị ARF lần thứ 17 diễn ra vào năm 2010 trở đi, các nước tham gia, nhất là các thành viên ASEAN có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và Mỹ đã nhiều lần đưa vấn đề tranh chấp trên Biển Đông ra thảo luận và tìm kiếm giải pháp hòa bình cho vùng biển đang “dậy sóng” này. Trong tuyên bố chung của ARF những năm gần đây, các nước thành viên đã nhấn mạnh sự cần thiết thực hiện đầy đủ DOC, UNCLOS 1982 và tiến tới xây dựng thông qua COC. Ở các diễn đàn khác nhau như Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +)… các nước ASEAN cũng đã nêu vấn đề Biển Đông ra thảo luận và ngày càng nhận được nhiều tiếng nói ủng hộ cho lập trường “quốc tế hóa”, giải quyết tranh chấp hòa bình và tự do hàng hải tại vùng biển này.
Có thể nói, lo ngại bởi những hành động quyết đoán đòi chủ quyền ở Biển Đông của các bên, nhất là từ phía Trung Quốc có thể gây bất ổn cho khu vực, các nước ASEAN từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước đã có những nỗ lực tập thể, tạo ra các định chế nhằm góp phần hòa giải mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột leo thang tại vùng biển này. Trên thực tế, các định chế như Tuyên bố ASEAN về Biển Đông năm 1992, DOC 2002 và Bản Hướng dẫn thực hiện DOC năm 2011, Tài liệu quan điểm của ASEAN về các thành tố cần có của COC năm 2012, “Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN về tình hình hiện nay ở Biển Đông” và “Tuyên bố chung AMM-47” trong năm 2014 cũng như các nỗ lực khác của ASEAN trên các diễn đàn an ninh đa phương như ARF, EAS, ADMM+, Diễn đàn đối thoại An ninh Châu Á - Shangri-La, Diễn đàn biển ASEAN mở rộng… đã và đang góp phần xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác hòa bình, tạo những cơ sở chính trị, pháp lý cho sự ra đời Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trong tương lai. ASEAN và các nước thành viên có quyền hy vọng về những cố gắng không mệt mỏi trong hơn 1/4 thế kỷ qua của mình sẽ đạt được thành quả là có được một COC thực chất, thiết thực, hiệu quả, giúp mang lại hòa bình, ổn định và hợp tác lâu dài tại khu vực.

- ASEAN bàn chiến lược hỗ trợ nhân đạo cho Myanmar
- 东盟54年:烈火见真金
- 越南海警提高国际合作效率
- Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
- 越南努力减少海洋塑料污染
- Việt Nam tăng cường quản lý giảm ô nhiễm rác thải nhựa đại dương
- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét