Home » biendao
Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2020
TQ tìm cách giải thích lại “chủ quyền” vô lý ở Biển Đông
Năm
2016, khi ra phán quyết về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc về tranh chấp
chủ quyền ở Biển Đông, Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (PCA) đã bác bỏ yêu
sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc theo “đường chín khúc” và xác định, không cấu
trúc địa lý nào tại quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và
thềm lục địa. Mặc dù Trung Quốc không công nhận PCA và một mực bác bỏ phán quyết
trên, nhưng kết luận của PCA cũng đã tác động lớn đến các yêu sách của Bắc Kinh
tại Biển Đông. Đó là họ một mặt khư khư bám giữ, không dám từ bỏ các yêu sách
đã tuyên bố trước đây vì lo ngại bị thế giới cho rằng Trung Quốc đã chấp nhận
phán quyết của PCA. Mặt khác, Trung Quốc thấy cần thiết phải xây dựng yêu sách
và lập luận mới để “lách” khỏi những gì PCA đã tuyên nhằm bảo đảm các lợi ích
mà họ “nhận xằng” tại Biển Đông vẫn được giữ nguyên, ít nhất là về mặt pháp lý,
đồng thời, giảm nhẹ các chỉ trích về việc Bắc Kinh không tuân thủ phán quyết của
PCA.
Trong
bối cảnh đó, năm 2017, Trung Quốc đưa ra yêu sách “Tứ Sa” một cách không chính
thức và cũng không giải thích cụ thể cả về nội dung và cơ sở pháp lý của yêu
sách này và đến nay, sau một thời gian “nghe ngóng” tình hình, họ mới “chính thức
hóa” yêu sách đó bằng công hàm trước Liên hợp quốc. Với các lý lẽ mà họ đưa ra,
có thể thấy yêu sách “Tứ Sa” bao gồm hai đòi hỏi quan trọng là chủ quyền đối với
các nhóm cấu trúc đá và bãi ngầm tại Biển Đông và chủ quyền, quyền chủ quyền tạo
ra từ các vùng biển bao quanh các nhóm cấu trúc đó. Phó Vụ trưởng Vụ Luật pháp
và Điều ước Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Tân Dân đã đưa ra khẳng định “chủ quyền”
của Trung Quốc đối với “Tứ Sa” bao gồm bốn nhóm đảo: Đông Sa (Pratas), Tây Sa (Hoàng
Sa), Nam Sa (Trường Sa) và Trung Sa (Macclesfield), đồng thời cũng đòi hỏi quyền
được hưởng vùng biển rộng lớn (gần như toàn bộ Biển Đông) xung quanh bốn khu vực
quần đảo này. Ông Mã nhấn mạnh rằng, khu vực này là vùng “lãnh hải lịch sử” của
Trung Quốc và cũng là một phần của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Trung
Quốc. Bắc Kinh cũng yêu sách quyền “sở hữu” bằng việc khẳng định “Tứ Sa” là một
phần của thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc.
Về
bản chất, yêu sách “Tứ Sa” vẫn phản ánh tham vọng không thay đổi của Trung Quốc
là “độc chiếm” Biển Đông thông qua việc khẳng định “chủ quyền” với “Tứ Sa” và kết
luận rằng, các cấu trúc đá và bãi ngầm tại đây có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Có thể thấy chiến thuật này cũng giúp
cho Trung Quốc yêu sách vùng biển có phạm vi gần như không khác biệt mấy so với
yêu sách “đường chín khúc” trước đây. Nói cách khác, việc đưa ra yêu sách này
là chiến thuật pháp lý mới của Trung Quốc, thay thế cho yêu sách “đường chín
khúc” sau khi nó chính thức bị tuyên bố là bất hợp pháp bởi phán quyết của PCA.
Xét
dưới góc độ pháp lý, giống như yêu sách “đường chín khúc” trước đây, yêu sách
các vùng biển dựa trên chủ quyền đối với “Tứ Sa” mà Trung Quốc đưa ra cũng là một
phiên bản mơ hồ, thiếu rõ ràng, lập luận pháp lý không có căn cứ và thiếu
logic, cụ thể:
Thứ
nhất, về cơ sở pháp lý của yêu sách chủ quyền, mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định
đã phát hiện, đặt tên cho các cấu trúc địa lý tại Biển Đông từ thời kỳ cổ đại
nhưng không có bằng chứng nào được đưa ra để minh chứng cho hành động thực thi
chủ quyền của Trung Quốc với các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách nhà
nước.
Thứ
hai, về việc xác lập đường cơ sở quần đảo, Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để
thiết lập đường cơ sở quần đảo đối với bất cứ nhóm đảo nào thuộc “Tứ Sa”. Vì đối
chiếu với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS
1982), Trung Quốc không phải là quốc gia quần đảo. Do đó, Trung Quốc không thể
áp dụng phương pháp vẽ đường cơ sở thẳng quần đảo, và cho dù Trung Quốc vẽ đường
cơ sở thẳng như vậy thì cũng không thể đáp ứng được yêu cầu tỷ lệ diện tích nước
so với diện tích đất nằm trong khoảng 1/1 và 9/1 theo quy định của UNCLOS 1982.
Để biện minh cho điểm yếu “chí mạng” là quốc gia lục địa, sao lại áp dụng
phương pháp vẽ đường cơ sở thẳng quần đảo, Trung Quốc lập luận rằng, phương
pháp đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 UNCLOS 1982 không chỉ giới
hạn cho các quốc gia quần đảo, trên thực tế, nhiều quốc gia lục địa cũng áp dụng
đường cơ sở quần đảo cho các nhóm đảo và tạo thành tập quán quốc tế. Lập luận
này không đúng vì số lượng các quốc gia lục địa áp dụng phương pháp đường cơ sở
quần đảo cho các nhóm đảo như vậy rất ít. Đặc biệt, trong quá trình đàm phán
xây dựng UNCLOS, vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo cho nhóm đảo của quốc gia
lục địa đã được đề cập và bị các nước tham gia đàm phán bác bỏ, không công nhận.
Vì vậy, đây là các thực tiễn áp dụng sai quy định của UNCLOS 1982, không tạo ra
tập quán quốc tế như Trung Quốc cố tình diễn giải.
Thứ
ba, về yêu sách vùng biển rộng lớn cho “Tứ Sa”: Các thực thể ở Biển Đông có
chung đặc điểm địa lý là các cấu tạo san hô, có diện tích nhỏ và với các điều
kiện tự nhiên nguyên sơ ban đầu, không có khả năng cho con người sinh sống và
không có đời sống kinh tế riêng. Chính vì vậy, phán quyết của PCA trong vụ kiện
của Philippines đã khẳng định các cấu trúc địa lý của Trường Sa và
Scarborough/Hoàng Nham không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Với
đặc điểm tự nhiên tương đồng, kết luận này của PCA cũng có thể áp dụng với tất
cả các nhóm đảo khác trong lập luận “Tứ Sa”, bao gồm Đông Sa (Pratas), Tây Sa
(Hoàng Sa), Trung Sa (Macclesfield). Đồng thời, chính Trung Quốc cũng thừa nhận
trong Sách trắng năm 2016 của mình rằng, nhiều cấu trúc tại các quần đảo này có
điều kiện tự nhiên khác nhau bao gồm đá ngầm, bãi cạn, cồn cát… Do đó, một số cấu
trúc địa lý chỉ có thể tạo ra vùng biển tối đa 12 hải lý theo quy định của
UNCLOS 1982 - phạm vi nhỏ hơn rất nhiều so với vùng biển mà Trung Quốc muốn yêu
sách. Vì vậy, yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý cho “Tứ Sa”, trong đó
có Trường Sa, Hoàng Sa là đi ngược lại kết luận của PCA có giá trị pháp lý ràng
buộc với Trung Quốc.
Căn
cứ các Điều 7, 10 và 47 của UNCLOS 1982 cũng như cách giải thích của các cơ
quan tài phán quốc tế, việc xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh các nhóm cấu
trúc địa lý ngoài khơi và xa bờ là không phù hợp với Công ước. Đồng thời, thực
tiễn quốc tế cũng như “quan điểm pháp lý” của các quốc gia thể hiện trước và
sau khi UNCLOS có hiệu lực đều cho thấy, không tồn tại tập quán quốc tế cho
phép các quốc gia ven biển được xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh các nhóm cấu
trúc địa lý ngoài khơi và xa bờ. Nên nhớ, khi phê chuẩn UNCLOS vào năm 1996,
Trung Quốc đã chấp thuận sự ràng buộc của Công ước (bao gồm cả các Điều 7, 10
và 47). Nếu Trung Quốc xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh 4 nhóm cấu trúc địa
lý tại Biển Đông theo yêu sách “Tứ Sa” và viện dẫn tập quán quốc tế làm cơ sở
pháp lý, thì theo quan điểm của PCA trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc,
hành vi này sẽ làm giảm giá trị pháp lý của UNCLOS, đồng thời vi phạm nghĩa vụ
tuân thủ UNCLOS theo Điều 300 của Công ước và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện các điều ước quốc tế được quy định trongCông ước Viên về luật Điều ước quốc
tế năm 1969 mà Trung Quốc cũng là thành viên. Vì vậy, cách tốt nhất để thể hiện
là một quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế và chứng minh nghĩa vụ thực hiện điều
ước quốc tế, Trung Quốc cần từ bỏ đường cơ sở bao quanh Hoàng Sa mà họ cố tình
xác lập năm 1996.
Bước
chuyển chiến thuật về yêu sách và diễn giải yêu sách tại Biển Đông lần này của
Trung Quốc cho thấy: (1) Bắc Kinh đang “chơi trò” mập mờ trong yêu sách chủ quyền
để có thể biến hóa ra nhiều cách diễn giải khác nhau, làm cho thế giới hiểu nhầm
và dễ chấp nhận. (2) Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành cuộc chiến trên “mặt
trận pháp lý” ở Biển Đông, coi đây là một trong những công cụ hữu ích trong
chính sách Biển Đông để từng bước “hợp thức hóa” yêu sách chủ quyền và tuyên
truyền Luật biển theo quan điểm riêng của Trung Quốc. (3) Trung Quốc đang tính
đến khả năng vẽ đường cơ sở quần đảo đối với 3 quần đảo còn lại trong số 4 quần
đảo thuộc “Tứ Sa” như đã làm đối với quần đảo Hoàng Sa và đưa ra yêu sách đối với
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định dựa trên đường cơ sở các
quần đảo này. Như vậy, vùng biển mà Trung Quốc yêu sách được tạo ra từ đường cơ
sở thẳng của các quần đảo trên sẽ có phạm vi rộng hơn cả vùng biển tạo ra bởi
yêu sách “đường chín khúc” trước đây. Ví dụ: Vùng biển của quần đảo Trung Sa sẽ
bao gồm cả bãi cạn Scarborough và điểm cực Nam của Trung Quốc sẽ đến tận James
Shoal (thuộc vùng biển của Trường Sa).
Tuy
nhiên, dù Trung Quốc có ngụy tạo cách gì thì cộng đồng quốc tế vẫn nhận ra được
“chiêu trò” và “dã tâm” của họ, cùng nhau đồng thanh lên tiếng bác bỏ và phản ứng
mạnh mẽ.
Ngay
sau khi Trung Quốc đưa ra yêu sách “Tứ Sa”, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ
lúc đó đã nhắc lại lập trường nhất quán của Mỹ trong vấn đề Biển Đông, đó là
các yêu sách biển của các quốc gia phải phù hợp với Luật biển quốc tế được phản
ánh trong UNCLOS 1982. Trong khi đó, cựu Tư lệnh tình báo Hạm đội Thái Bình
Dương Mỹ Jim Fanell cho rằng, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với “Tứ
Sa” là bước đi logic tiếp theo trong chiến lược “lát cắt salami” nhằm yêu sách
toàn bộ Biển Đông của quốc gia này, thay thế cho yêu sách “đường chín khúc” vốn
bị phản đối mạnh mẽ từ các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Nhiều
chuyên gia luật pháp quốc tế cũng cho rằng, mặc dù đưa ra “luận điểm” mới về
yêu sách chủ quyền trên biển rất thiếu cơ sở về mặt pháp lý, thậm chí còn thiếu
hơn cả yêu sách “đường chín khúc”, nhưng nó vẫn đem lại cho Trung Quốc một số lợi
ích nhất định. Đó là: (1) Việc đưa ra yêu sách “đường chín khúc” trước đây đã
khiến Trung Quốc trở thành tâm điểm của nhiều sự chỉ trích ở cả trong và ngoài
nước, trong khi yêu sách chủ quyền đối với “Tứ Sa” có thể vấp phải ít sự chỉ
trích hơn, nhất là đối với người Trung Hoa. (2) Trung Quốc có thể làm giảm thiểu
sự phản đối của cộng đồng quốc tế và giành được sự ủng hộ của các đối tác tiềm
năng trong khu vực (ví dụ như Philippines) nhờ việc tuyên bố yêu sách với câu
chữ gần với quy định của UNCLOS 1982 hơn. (3) Với vai trò là một cường quốc
đang lên, Trung Quốc rất muốn tham gia vào việc định hình “luật chơi”, cụ thể
là tìm cách giải thích lại các quy định của UNCLOS 1982 và các quy định hiện
hành của luật pháp quốc tế theo hướng phù hợp với lợi ích quốc gia của mình.
Trung Quốc có thể dựa vào đội ngũ luật sư và học giả luật pháp quốc tế của họ để
tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế - đây chính là việc sử dụng kết hợp giữa
chiến tranh pháp lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh tâm lý mà Trung Quốc
đang triển khai để củng cố yêu sách của họ trên Biển Đông.
Trong
một bài viết mới đây của hai chuyên gia về công pháp quốc tế là Julian Ku và
Christopher Mirasola trên trang Lawfare - một trang chuyên về an ninh do
Lawfare Institute và Brookings Institution (Mỹ) thực hiện, với sự hợp tác của
nhiều luật gia, có tựa đề “Biển Đông và yêu sách Tứ Sa của Trung Quốc: Lý thuyết
mới về pháp luật, nhưng lập luận tệ hại như cũ”, hai chuyên gia trên cho rằng,
về mặt luật pháp, lý lẽ mà Trung Quốc đưa ra về “Tứ Sa” cũng chẳng có gì hơn so
với “đường chín khúc” lâu nay. Nó không phải là một khái niệm mới mẻ, thậm chí
đã xuất hiện từ lâu trong các văn kiện pháp lý và tuyên bố chính thức của quốc
gia này. Cụ thể: Luật về lãnh hải và đường tiếp giáp của Trung Quốc năm 1992 đã
tuyên bố lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả “Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa”.
Sách Trắng Trung Quốc công bố năm 2016 khi tranh chấp với Philippines cũng khẳng
định chủ quyền “Nam Hải chư đảo” (các đảo trên Biển Đông) gồm bốn nhóm đảo
trên, kể cả “các đảo, rạn san hô, bãi cạn, thực thể có số lượng và kích thước
khác nhau”. Năm 1996, Trung Quốc ấn định các đường cơ sở bao quanh quần đảo
Hoàng Sa, coi đây là một đơn vị địa lý duy nhất nhằm mở rộng tối đa yêu sách. Tất
cả những văn kiện nêu trên của Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp với phán quyết
của PCA, vì phán quyết của PCA năm 2016 đã khẳng định, không một thực thể nào ở
Trường Sa đủ lớn để có được lãnh hải 12 hải lý xung quanh. Do Trung Quốc không
phải là một quốc gia gồm nhiều đảo hợp lại như Indonesia hay Philippines, nên hầu
hết các nước đều coi việc vẽ ra những đường cơ sở xung quanh một nhóm đảo là đi
ngược lại với UNCLOS. Hai chuyên gia Julian Ku và Christopher Mirasola khẳng định,
Trung Quốc không hội đủ điều kiện quy định tại Điều 47 của UNCLOS, vì đất liền
Trung Quốc cách xa tít tắp vùng biển họ yêu sách; đồng thời kết luận, trong khi
chờ đợi “đường chín khúc” bị quẳng vào thùng rác của lịch sử, khó có thể tin rằng
với “Tứ Sa”, Bắc Kinh sẽ đóng một vai trò “khiêm tốn” hơn tại Biển Đông.
Tóm
lại, dù là đưa ra yêu sách “đường chín khúc” hay yêu sách “Tứ Sa”, Trung Quốc đều
thể hiện tham vọng muốn “độc chiếm” Biển Đông. Và chúng đều là những yêu sách
phi lý, bất hợp pháp, không phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế. Thế
nhưng, Trung Quốc muốn lợi dụng sự mập mờ để có thể triển khai nhiều cách diễn
giải khác nhau trước khi có một tuyên bố chính thức có lợi nhất, trong khi tiếp
tục đẩy mạnh các hoạt động trên thực địa nhằm củng cố quyền kiểm soát trên Biển
Đông. Vì thế, các nước, các tổ chức quốc tế cần tỉnh táo, cảnh giác với thủ đoạn
lừa bịp này của Trung Quốc.

- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét