Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và
nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương đúng, phù hợp với thực
tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Đây là vấn đề luôn được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước ta và được xác định đầy đủ trong Dự thảo các Văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng.
Độc lập, tự chủ là năng lực của quốc gia
trong giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích
quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt
từ bên ngoài. Quốc gia độc lập, tự chủ là quốc gia có quyền quyết định việc lựa
chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị, độc lập, tự chủ cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó,
độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự
chủ về chính trị và tăng cường độc lập, tự chủ của quốc gia; không thể có độc lập,
tự chủ về chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ không có nghĩa là khép kín, tách bạch với khu vực và thế giới
mà được thực hiện thông qua việc phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực,
phù hợp với yêu cầu trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và
hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm nhất quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo
chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng trong điều kiện mới.
Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, Đảng ta luôn nhất quán, vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ
trương: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: “xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng”1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, nêu rõ:
“Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ
ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững
và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng sức mạnh
dân tộc; trong đó, nội lực là quyết định; tranh thủ yếu tố ngoại lực và thời đại
có vai trò quan trọng. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 01/4/2013 của Bộ Chính trị
(khóa XI) về hội nhập quốc tế, chủ trương: hội nhập kinh tế quốc tế là trọng
tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế
và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.
Đại hội XII (năm 2016), xác định: “chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế
quốc tế,… kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”2. Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 05/11/2016
của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước
ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chủ trương: tăng cường
khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công
nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Đánh
giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về hội nhập kinh tế quốc tế, Dự thảo
Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: hội nhập kinh tế quốc tế
phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp
định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. “Tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên
517 tỷ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 đạt khoảng
527 tỷ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ 72,2 tỷ USD năm
2010 lên khoảng 267 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 14% năm, là động lực
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế”3, v.v. Đó là minh chứng khẳng định chủ
trương nhất quán, đúng đắn, sáng tạo của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ gắn với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian tới, dự báo toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của
chủ nghĩa dân tộc; luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước
những thách thức lớn; kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng
và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19; sự điều chỉnh chính
sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến
khó đoán định. Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những hạn chế và nguy cơ tụt
hậu; độ mở cửa nền kinh tế cao, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên
ngoài còn mức độ, v.v. Trong bối cảnh đó, Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội
XIII của Đảng, xác định: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế”4, thể hiện sự nhất quán, kế thừa, phát triển, vận
dụng sáng tạo chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng, phù hợp
với tình hình mới.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và
hội nhập kinh tế quốc tế là sự cụ thể hóa việc nắm vững và xử lý một trong những
nội dung quan trọng là kinh tế trong mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế”5. Đây là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng;
trong đó, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của
đất nước đều thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của quốc
gia - dân tộc. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm phát triển kinh tế
đất nước, nâng cao đời sống nhân dân và để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; đồng thời, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện bảo đảm cho nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. Với lẽ đó, Đảng ta đã đưa nội dung “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ”; “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế” trong cùng Mục IV: “Hoàn thiện
toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” của Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII là đúng đắn, phù hợp,
thể hiện sự nhất quán của Đảng trong nắm vững và xử lý các quan hệ lớn. Để thực
hiện tốt, trong những năm tới, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện đồng bộ một
số yêu cầu và giải pháp trọng tâm sau:
1. Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc
xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Đây là
vấn đề quan trọng hàng đầu, bài học kinh nghiệm qua hơn 35 năm đổi mới, bảo đảm
cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế.
2. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn
mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng
bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; nâng
cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động
của bên ngoài. Hiện nay, “Nhiều doanh nghiệp nhà nước… hiệu quả sản xuất, kinh
doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn… Phần lớn doanh nghiệp
tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị
yếu”6. Vì vậy, cần phải thúc đẩy doanh nghiệp phát triển lớn mạnh, bảo đảm tốt
an ninh kinh tế và không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, khả năng
chống chịu trước tác động tiêu cực từ bên ngoài.
3. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
kinh tế quốc tế, qua đó, vừa khai thác tiềm năng, lợi thế của các thị trường, vừa
tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác, nhất là khi thị trường hay đối
tác đó có sự biến động.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp
với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Những năm
qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết,
tham gia nhiều điều ước, cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới với những cam kết sâu rộng, toàn diện. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cần phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết.
5. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập
kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của
đất nước từng giai đoạn. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm nhiều hình thức với mức
độ và yêu cầu khác nhau, như: thỏa thuận thương mại ưu đãi, khu vực thương mại
tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, v.v. Vì vậy, cần
phải thực hiện nhiều hình thức với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện,
khả năng và mục tiêu của đất nước từng giai đoạn, góp phần tích cực xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
6. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, am hiểu
sâu về luật pháp, thương mại, đầu tư, văn hóa, ngoại ngữ,… đáp ứng yêu cầu làm
việc trong môi trường quốc tế, giải quyết các tranh chấp, bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc.

- Củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam và Singapore
- 继承越南和朝鲜的友好传统
- Tiếp nối truyền thống hữu nghị Việt Nam-Triều Tiên
- 越南-古巴双边关系新的发展阶段
- Giai đoạn phát triển mới trong quan hệ song phương Việt Nam - Cuba
- 在世界复杂多变背景下,越南更强调多边合作
- Việt Nam đề cao hợp tác đa phương trong bối cảnh thế giới nhiều biến động
- 继续推动和提升联合国维和行动水平
- Tiếp tục đẩy mạnh, nâng tầm hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc
- 越南-联合国45周年:全面、有效的合作关系
- 45 năm Việt Nam – LHQ: Quan hệ hợp tác toàn diện và hiệu quả
- 越南与联合国关系45周年:致力于和平、合作与发展的可靠伙伴
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét