Phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa để quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới (phần 2)
Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên văn
hóa dồi dào, đa dạng về loại hình và có giá trị cao trên nhiều phương diện, với
gần 4 vạn di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, hơn 59 nghìn di sản văn
hóa phi vật thể phân bố trên khắp cả nước. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh
quan kỳ vĩ cùng nhiều di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa
thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế,
thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.
Những năm gần đây, các sản phẩm, dịch vụ văn
hóa Việt Nam ngày càng phát triển, đa dạng về nội dung và hình thức, thị trường
văn hóa đang hình thành và phát triển. Nhiều loại hình, sản phẩm, dịch vụ văn
hóa mới đã, đang được tìm tòi, thể nghiệm, trình diễn, đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng, có chiều sâu của các tầng lớp nhân dân và bắt đầu vươn ra thế giới.
Nhiều sản phẩm mới được sáng tác, đầu tư, dàn dựng công phu, phong phú và khá đặc
sắc, xuất hiện nhiều điểm sáng trong các lĩnh vực của các ngành công nghiệp văn
hóa. Diện mạo của một nền công nghiệp văn hóa sôi động, đa sắc, phát triển ngày
một chuyên nghiệp đang từng bước hình thành, bước đầu tham gia tích cực vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong ngành điện ảnh, năm 2016,
doanh thu khu vực doanh nghiệp điện ảnh đạt 11.073 tỷ đồng. Năm 2017,
doanh thu ngành điện ảnh đạt 3.228 tỷ đồng (khoảng 140 triệu USD), năm
2018, con số này là 3.353 tỷ đồng (khoảng 145 triệu USD). Năm 2019, cả
nước có 264 đội chiếu phim lưu động, phục vụ khoảng 9 triệu lượt người xem. Thị
trường phát hành phim thương mại có số lượng phòng chiếu là 1.050 phòng tại 204
cụm rạp. Thống kê từ các hệ thống rạp lớn trên cả nước cho thấy tổng doanh thu
điện ảnh Việt Nam năm 2019 đạt trên 4.100 tỷ đồng (tăng 26% so với năm 2018).
Năm 2019 cũng là năm có doanh thu phim Việt cao nhất trong lịch sử phòng vé,
các phim điện ảnh Việt Nam chiếm 29% tổng doanh thu ngành điện ảnh, khoảng
1.150 tỷ đồng (tăng trưởng hơn 40% so với mốc 800 tỷ đồng của năm 2018). Trong
lĩnh vực quảng cáo, theo Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam, hiện nước ta có khoảng
6.000 doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo và các phương thức quảng cáo đang được
thực hiện rộng rãi trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng. Doanh thu
ngành quảng cáo trên các phương tiện truyền thông năm 2015 đạt trên 1 tỷ USD
(chưa thống kê doanh thu quảng cáo trên các ấn phẩm) với tốc độ phát triển
trong những năm qua khá cao, khoảng 20% - 30%. Năm 2019 (tính đến ngày 15-12-2019),
doanh thu quảng cáo trên truyền hình đạt 44,977 tỷ đồng, báo in đạt 1,454 tỷ đồng,
hoạt động quảng cáo ngoài trời đạt 1,445 tỷ đồng, quảng cáo trên in-tơ-nét đạt
16,662 tỷ đồng. Ngành quảng cáo đang phấn đấu hoàn thành và vượt mục tiêu đạt
doanh thu 1,5 tỷ USD năm 2020 và 3,2 tỷ USD năm 2030. Trong lĩnh vực du lịch,
năm 2015, tổng thu từ du lịch đạt 15 tỷ USD (tăng 6,2% so với năm 2014), trong
đó du lịch văn hóa ước tính chiếm 10% (1,5 tỷ USD) trong tổng thu từ du lịch.
Năm 2019, ngành du lịch đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng 16,2% so với
năm 2018), phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt khoảng 720.000 tỷ
đồng, được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh
nhất thế giới. Trong lĩnh vực xuất bản, năm 2019, doanh thu ngành xuất bản đạt
trên 2.600 tỷ đồng, lợi nhuận đạt khoảng 230 tỷ đồng (tăng 8% so với năm 2018).
Bên cạnh đó, theo thống kê, tổng doanh thu hằng năm của ngành mỹ thuật nước ta
đạt khoảng 60 triệu USD, còn thủ công, mỹ nghệ là ngành nằm trong số 11 ngành
có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nước ta, góp phần tạo lợi nhuận kinh tế và
cơ hội việc làm lớn, giảm chênh lệch kinh tế giữa nông thôn và thành thị, góp
phần lớn vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.
Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, năm
2019, các đơn vị nghệ thuật Trung ương đẩy mạnh hoạt động tự chủ, tổ chức các
chương trình biểu diễn nghệ thuật, kinh phí thu từ các buổi biểu diễn có bán vé
đạt khoảng 72,3 tỷ đồng, tăng trưởng doanh thu đạt khoảng 5% mỗi năm. Các đơn vị
nghệ thuật địa phương tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, biểu diễn
lưu động ở nhiều địa phương, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Nhiều
chương trình nghệ thuật mới ra đời cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của
công nghiệp văn hóa ở loại hình nghệ thuật biểu diễn, giải trí. Một số sản phẩm,
dịch vụ nổi bật đã được hình thành, tạo thương hiệu quốc tế, như “À Ố show”,
“Tinh hoa Bắc Bộ”, “Ký ức Hội An”, chương trình múa rối “Nhịp điệu quê
hương”,... đã tạo được ấn tượng mạnh và thu hút khán giả Việt Nam cũng như
khách du lịch nước ngoài. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất, lưu hành, kinh doanh
bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu hằng năm vẫn có những bước phát triển
tương đối ổn định.
Tuy nhiên, đến nay văn hóa Việt Nam chưa được
công chúng quốc tế biết đến nhiều, chưa thực sự trở thành một thương hiệu vì
nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Các sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt
Nam chưa thực sự tạo một ra cuộc bứt phá ngoạn mục, chưa tạo được dấu ấn đậm
nét với công chúng quốc tế. Trong khi đó, hàng hóa văn hóa nước ngoài đang ngày
càng tràn lan, có sức ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ trong tiêu dùng của người
dân Việt Nam. Theo báo cáo xuất bản năm 2018 của Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD), trong số 130 quốc gia được báo cáo không có
thông tin về hiện trạng sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam. Trong một báo cáo
khác có tiêu đề: “Toàn cầu hóa thương mại văn hóa: sự thay đổi trong tiêu dùng
- Dòng chảy hàng hóa và dịch vụ văn hóa quốc tế 2004 - 2013”(1) do UNESCO-UIS
xuất bản năm 2016, Việt Nam đứng thứ 17 trong số 20 nước đứng đầu thế giới về
nhập khẩu hàng hóa văn hóa các dịch vụ thiết kế và sáng tạo. Tuy nhiên, Việt
Nam không có tên trong danh sách các nước xuất khẩu nhiều nhất hàng hóa văn hóa
ra thế giới. Rõ ràng, tình trạng nhập khẩu sản phẩm văn hóa nước ngoài vào Việt
Nam đang vượt trội so với xuất khẩu văn hóa. Báo cáo này cũng cho thấy, giai đoạn
2008 - 2018 đã chứng kiến vai trò ngày càng tăng của một số nước, như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ma-lai-xi-a, Thổ Nhĩ Kỳ... trong xuất khẩu hàng hóa
văn hóa. Đây là những nước có vai trò quan trọng trong thị trường toàn cầu về
nghệ thuật thị giác và thủ công mỹ nghệ. Nhìn chung, thực tế cho thấy thương mại
dịch vụ văn hóa bị chi phối phần lớn bởi các nước phát triển, trong khi đó có rất
nhiều thách thức đối với một nước đang phát triển như Việt Nam.
Vị thế còn khiêm tốn của các sản phẩm, dịch vụ
văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế có thể được lý giải từ nhiều nguyên nhân
khác nhau. Trước tiên là thể chế quản trị nhằm thúc đẩy thị trường dịch vụ văn
hóa vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Luật và các văn bản dưới luật trong lĩnh vực
văn hóa, công nghiệp văn hóa chưa thực sự đi vào cuộc sống, quản lý nhà nước và
kỹ năng kinh doanh chưa thích ứng với cơ chế thị trường, còn tình trạng quan
liêu, thiếu minh bạch. Bộ máy quản lý còn cồng kềnh và phức tạp. Các tổ chức
văn hóa còn phụ thuộc vào sự bao cấp của Nhà nước, thiếu năng động, chưa đa dạng
hóa tối đa các mô hình kinh doanh. Về tổng thể, đầu tư nhà nước trong lĩnh vực
văn hóa còn thấp và thiếu các biện pháp, cơ chế cụ thể để khuyến khích nguồn lực
của xã hội đầu tư vào văn hóa.
Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam có
quy mô thị trường lớn cho nhiều loại hàng hóa, trong đó có hàng hóa và dịch vụ
văn hóa, nhất là trong những năm gần đây khi thu nhập của người dân được nâng
lên, nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng. Sự phát triển kinh tế
- xã hội và quá trình hội nhập quốc tế cũng tạo những tiền đề quan trọng cho sự
nghiệp phát triển văn hóa với các sản phẩm, dịch vụ đa dạng, độc đáo. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, để xây dựng một đời sống văn
hóa vừa sôi động, đa dạng, vừa có chiều sâu với những sản phẩm có giá trị cao
cũng như tạo ra một thương hiệu mạnh cho đất nước, góp phần đem lại những lợi
ích đa dạng cả về xã hội, kinh tế, văn hóa, chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược
cũng như những giải pháp phù hợp, phải không ngừng đổi mới về nội dung, hình thức
để tiềm năng văn hóa Việt Nam có thể biến chuyển thành một ngành công nghiệp tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng, tạo ra ưu thế cạnh tranh trong
nước và trên trường quốc tế. Cụ thể, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp
sau:
Một là, tăng cường công tác thông tin và truyền
thông để nâng cao nhận thức về vai trò của các sản phẩm, dịch vụ văn hóa trong
việc quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới. Các sản phẩm
văn hóa là sự kết hợp giữa sự sáng tạo, sản xuất và kinh doanh, khai thác các nội
dung có bản chất phi vật thể, tạo thành các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, được bảo
vệ bởi luật bản quyền và các luật liên quan. Các sản phẩm và dịch vụ này vừa
mang giá trị nghệ thuật, vừa mang giá trị kinh tế, được vận hành theo những quy
luật của nền kinh tế hàng hóa và có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các yếu tố công nghệ.
Hai là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực, có cơ chế đãi ngộ, huy động các tài năng trong nước và thế giới
tham gia vào việc sáng tạo các sản phẩm văn hóa Việt Nam, sản xuất ra những sản
phẩm văn hóa phản ánh được những vấn đề mà xã hội, cộng đồng đang quan tâm. Yêu
cầu hình thành nên các sản phẩm văn hóa mang tầm thời đại nhưng đậm đà bản sắc
dân tộc đòi hỏi sự góp sức từ đội ngũ sáng tạo, trí thức hiểu biết về văn hóa
dân tộc nhưng lại thông hiểu “ngôn ngữ” của thời đại. Phát huy tính năng động,
nhạy bén của các chủ thể tham gia trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn
hóa, trong đó chú trọng hơn nữa vai trò của các nghệ sĩ Việt Nam ở nước ngoài,
các nghệ sĩ, trí thức người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam. Đội ngũ này vừa có
vốn văn hóa và kinh nghiệm quốc tế dày dặn, vừa thấm nhuần văn hóa Việt Nam, có
thể góp phần truyền tải văn hóa Việt Nam bằng ngôn ngữ quốc tế.
Ba là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ
trương xã hội hóa văn hóa. Xem xét, lựa chọn những lĩnh vực đủ năng lực có thể
chuyển đổi sang các mô hình xã hội hóa để khai thác được lợi thế mà vẫn bảo vệ
được những vùng “dễ bị tổn thương” khi không còn nguồn lực giúp đỡ từ phía Nhà
nước. Vận dụng sáng tạo và hiệu quả mô hình kết hợp các nguồn nhân lực/các tài
năng sáng tạo, tinh thần doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ và môi trường pháp lý có
tính cạnh tranh, các tổ hợp sáng tạo và mạng lưới làm việc...
Bốn là, tăng cường tiếp cận nhu cầu của công
chúng, người tiêu dùng sản phẩm văn hóa - nghệ thuật. Tăng cường sự tiếp cận,
tham dự của công chúng vào quá trình hình thành các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Các sản phẩm văn hóa muốn phát triển cần được hình thành dựa trên nhu cầu xã hội
và cần tìm được những phân khúc thị trường cũng như công chúng có nhu cầu
riêng. Do vậy, cần từng bước hình thành cộng đồng người tiêu dùng sản phẩm, dịch
vụ văn hóa trong nước thông qua hoạt động quảng bá, nâng cao khả năng tiếp cận,
sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng, phát huy vai trò tuyên
truyền, giáo dục của các đơn vị, tổ chức văn hóa nhằm phát triển năng lực hiểu
biết, cảm thụ các sản phẩm, dịch vụ văn hóa ở công chúng, người tiêu dùng.
Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
văn hóa. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo dựng môi trường
pháp lý phù hợp và thuận lợi hơn cho các hoạt động sáng tạo, sản xuất, phân phối
và thụ hưởng các giá trị văn hóa. Thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các quy định
pháp lý về sở hữu trí tuệ, ưu đãi thuế, quy định về thẩm định và kiểm duyệt việc
ban hành, phổ biến các tác phẩm văn hóa... Chú trọng nâng cấp kết cấu hạ tầng,
nhất là kết cấu hạ tầng về công nghệ thông tin, ứng dụng các thành tựu của khoa
học - công nghệ, kỹ thuật số hiện đại để hỗ trợ và nâng cao năng lực sáng tạo,
quản lý, sản xuất, kinh doanh và tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo văn
hóa. Đổi mới cách thức tiếp cận về quản trị nhà nước, đầu tư để thúc đẩy tăng
trưởng và đổi mới trong lĩnh vực văn hóa.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Kết nối mạng lưới, tích cực tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa với các nước, các tổ chức quốc tế; chú trọng lồng ghép chương trình văn hóa gắn với các sự kiện ngoại giao, giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế; mở rộng hợp tác liên doanh với các tổ chức nước ngoài trong đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trong tổ chức các chương trình, sản phẩm, liên hoan văn hóa - nghệ thuật; qua đó, nâng cao trình độ, năng lực biểu diễn cho đội ngũ sáng tạo văn hóa cũng như nâng cao khả năng hội nhập quốc tế cho ngành văn hóa trong nước, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, đem tinh hoa văn hóa - nghệ thuật đương đại của khu vực và quốc tế đến gần hơn với công chúng trong nước./.

- Tiếp biến văn hóa - Nền tảng phục hồi và phát triển bền vững kinh tế
- 传承越南灶王节文化之美
- Lễ cúng ông Công, ông Táo - Phong tục tín ngưỡng đẹp của người Việt
- 发展各种文化产品与服务 向世界推广越南形象(第二期)
- 保护与弘扬文化遗产价值 发挥国家文化的“软实力”
- Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam
- 保护和弘扬升龙皇城的世界文化遗产价值
- Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hoàng thành Thăng Long
- 促进越南文化产业发展
- Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
- 培育海外年轻一代对越南语的热爱
- Bồi đắp tình yêu tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét