Home » biendao
Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013
Lý Oa Đằng:Nên giữ hay bỏ “đường chín đoạn” (2)
Thứ ba, “đường chín đoạn” không phù hợp luật pháp quốc tế
Căn cứ các quy định của Công ước Luật biển mà TQ đã tích cực thúc đẩy, ký kết và phê chuẩn, cho dù TQ hoàn toàn lấy được tất cả quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa như tuyên bố, thì vùng đặc quyền kinh tế lớn nhất căn cứ theo luật pháp quốc tế và từ vị trí địa lý của các quần đảo cũng nhỏ hơn nhiều so với phạm vi trong “đường chín đoạn”.
Có người cho rằng, đường chín đoạn xuất hiện trước Công ước Luật biển, bởi vậy không chịu sự ràng buộc của Công ước. Điều này thể hiện sự thiếu hiểu biết về Công ước Luật biển. Trên thực tế, sở dĩ các nước trên thế giới cần phải đàm phán xây dựng Luật biển là bởi khi đó, tình trạng khoanh vùng, chiếm giữ các vùng biển trên thế giới diễn ra quá nghiêm trọng, các nước đều điên cuồng mở rộng phạm vi vùng biển của mình, dẫn tới tình trạng xung đột tranh chấp liên tiếp diễn ra. Sự ra đời của Công ước Luật biển chính là để giải quyết tình trạng đó. Nếu lấy lý do “đường chín đoạn” xuất hiện trước Công ước Luật biển để phủ nhận việc Trung Quốc phải tuân thủ Luật biển quốc tế, vậy Công ước Luật biển này cũng đồng nghĩa với một tờ giấy lộn, bởi đường biên giới trên biển của rất nhiều nước trên thế giới đưa ra đều ra đời trước Công ước Luật biển.
Thứ tư, vùng biển phía trong “đường chín đoạn” không phải là vùng biển lịch sử của TQ
Hiện nay đang có cách giải thích rằng vùng biển phía trong “đường chín đoạn” là vùng biển lịch sử của TQ, được quy định trong Luật biển quốc tế. Trên thực tế, vùng biển lịch sử là một khái niệm đặc biệt ra đời trong quá trình xây dựng Luật biển quốc tế, không hề có quy định chính thức. Nhưng có một tiêu chuẩn được các nước công nhận là, một nước tại vùng biển đó trong một thời gian lâu dài thực thi quyền tư pháp và quyền quản lý mà không hề có tranh chấp. TQ rõ ràng không thể đạt được tiêu chuẩn này.
Từ xưa tới nay, Nam Hải là vùng biển chung của các quốc gia xung quanh cũng như các quốc gia có liên quan. Bắt đầu từ thời Hán Trung Quốc, thuyền buôn từ Chiêm Thành (miền Nam Việt Nam), Phù Nam (hiện nay là Campuchia), Ba Tư, Ấn Độ, Arập... đã đi qua khu vực này, và dần dần trở thành lực lượng chủ đạo trên con đường giao thông đường biển tại Nam Hải. TQ cho tới thời Tống - Nguyên mới bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong giao thông buôn bán tại Nam Hải, nhưng cũng chưa quan trọng hơn người Arập. Kể từ thời Minh, do hai triều Minh – Thanh trong một thời gian dài thực hiện chính sách cấm biển, địa vị của Trung Quốc trong giao thông tại Nam Hải lại một lần nữa bị giảm sút, các nước mới nổi như Sulu, Brunây và các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha chiếm giữ vai trò chủ đạo. Cho tới thời cận đại, các nước Anh, Pháp... lại giữ vai trò chủ đạo trong giao thông tại Nam Hải. Thực tế đã chứng minh, Nam Hải là vùng biển chung của các quốc gia xung quanh cũng như các quốc gia trên thế giới, không phải là tài sản riêng của TQ.
TQ cũng chưa từng thực thi chủ quyền hoàn toàn trong vùng biển phía trong “đường chín đoạn”. Trước khi “đường chín đoạn” xuất hiện, các đảo tại Nam Hải đều không thuộc quyền sở hữu của TQ. Phía Tây của Tây Sa và quần đảo Nam Sa do Pháp chiếm giữ, tàu chiến Anh – Pháp thường xuyên có hoạt động tuần tra tại Tây Sa và Nam Sa. Cho tới năm 1954 Lâm Tôn tiến hành “thu hồi các đảo tại Nam Hải”, TQ lần đầu tiên mới có lực lượng của chính quyền đặt chân lên Nam Sa. Cho tới năm 1974, TQ mới chiếm hoàn toàn quần đảo Tây Sa, nhưng chưa từng chiếm được phần lớn quần đảo Nam Sa. Trong một thời gian dài, tàu thuyền các nước qua lại buôn bán trong vùng biển phía trong “đường chín đoạn” đều không cần có sự phê chuẩn của TQ, TQ cũng chưa từng tiến hành bảo vệ và cứu trợ.
Có người nói, TQ từ sau năm 1947 đã luôn tuyên bố và dùng các hình thức lập pháp để khẳng định các quần đảo trong “đường chín đoạn” là lãnh thổ của TQ. Điều này đã chứng minh chủ trương “đường chín đoạn” mang tính lịch sử. Nhưng cách giải thích này rất đáng buồn cười. Thứ nhất, việc lập pháp chỉ nhằm vào các đảo tại Nam Hải chứ không phải “đường chín đoạn’, “đường chín đoạn” cho tới nay thậm chí vẫn chưa có địa vị pháp lý gì. Thứ hai, tuyên bố và hoạt động lập pháp đều chỉ là hành động bằng miệng và trên giấy tờ, TQ chưa hề hiện thực hóa những việc này...(còn tiếp)
Căn cứ các quy định của Công ước Luật biển mà TQ đã tích cực thúc đẩy, ký kết và phê chuẩn, cho dù TQ hoàn toàn lấy được tất cả quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa như tuyên bố, thì vùng đặc quyền kinh tế lớn nhất căn cứ theo luật pháp quốc tế và từ vị trí địa lý của các quần đảo cũng nhỏ hơn nhiều so với phạm vi trong “đường chín đoạn”.
Có người cho rằng, đường chín đoạn xuất hiện trước Công ước Luật biển, bởi vậy không chịu sự ràng buộc của Công ước. Điều này thể hiện sự thiếu hiểu biết về Công ước Luật biển. Trên thực tế, sở dĩ các nước trên thế giới cần phải đàm phán xây dựng Luật biển là bởi khi đó, tình trạng khoanh vùng, chiếm giữ các vùng biển trên thế giới diễn ra quá nghiêm trọng, các nước đều điên cuồng mở rộng phạm vi vùng biển của mình, dẫn tới tình trạng xung đột tranh chấp liên tiếp diễn ra. Sự ra đời của Công ước Luật biển chính là để giải quyết tình trạng đó. Nếu lấy lý do “đường chín đoạn” xuất hiện trước Công ước Luật biển để phủ nhận việc Trung Quốc phải tuân thủ Luật biển quốc tế, vậy Công ước Luật biển này cũng đồng nghĩa với một tờ giấy lộn, bởi đường biên giới trên biển của rất nhiều nước trên thế giới đưa ra đều ra đời trước Công ước Luật biển.
Thứ tư, vùng biển phía trong “đường chín đoạn” không phải là vùng biển lịch sử của TQ
Hiện nay đang có cách giải thích rằng vùng biển phía trong “đường chín đoạn” là vùng biển lịch sử của TQ, được quy định trong Luật biển quốc tế. Trên thực tế, vùng biển lịch sử là một khái niệm đặc biệt ra đời trong quá trình xây dựng Luật biển quốc tế, không hề có quy định chính thức. Nhưng có một tiêu chuẩn được các nước công nhận là, một nước tại vùng biển đó trong một thời gian lâu dài thực thi quyền tư pháp và quyền quản lý mà không hề có tranh chấp. TQ rõ ràng không thể đạt được tiêu chuẩn này.
Từ xưa tới nay, Nam Hải là vùng biển chung của các quốc gia xung quanh cũng như các quốc gia có liên quan. Bắt đầu từ thời Hán Trung Quốc, thuyền buôn từ Chiêm Thành (miền Nam Việt Nam), Phù Nam (hiện nay là Campuchia), Ba Tư, Ấn Độ, Arập... đã đi qua khu vực này, và dần dần trở thành lực lượng chủ đạo trên con đường giao thông đường biển tại Nam Hải. TQ cho tới thời Tống - Nguyên mới bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong giao thông buôn bán tại Nam Hải, nhưng cũng chưa quan trọng hơn người Arập. Kể từ thời Minh, do hai triều Minh – Thanh trong một thời gian dài thực hiện chính sách cấm biển, địa vị của Trung Quốc trong giao thông tại Nam Hải lại một lần nữa bị giảm sút, các nước mới nổi như Sulu, Brunây và các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha chiếm giữ vai trò chủ đạo. Cho tới thời cận đại, các nước Anh, Pháp... lại giữ vai trò chủ đạo trong giao thông tại Nam Hải. Thực tế đã chứng minh, Nam Hải là vùng biển chung của các quốc gia xung quanh cũng như các quốc gia trên thế giới, không phải là tài sản riêng của TQ.
TQ cũng chưa từng thực thi chủ quyền hoàn toàn trong vùng biển phía trong “đường chín đoạn”. Trước khi “đường chín đoạn” xuất hiện, các đảo tại Nam Hải đều không thuộc quyền sở hữu của TQ. Phía Tây của Tây Sa và quần đảo Nam Sa do Pháp chiếm giữ, tàu chiến Anh – Pháp thường xuyên có hoạt động tuần tra tại Tây Sa và Nam Sa. Cho tới năm 1954 Lâm Tôn tiến hành “thu hồi các đảo tại Nam Hải”, TQ lần đầu tiên mới có lực lượng của chính quyền đặt chân lên Nam Sa. Cho tới năm 1974, TQ mới chiếm hoàn toàn quần đảo Tây Sa, nhưng chưa từng chiếm được phần lớn quần đảo Nam Sa. Trong một thời gian dài, tàu thuyền các nước qua lại buôn bán trong vùng biển phía trong “đường chín đoạn” đều không cần có sự phê chuẩn của TQ, TQ cũng chưa từng tiến hành bảo vệ và cứu trợ.
Có người nói, TQ từ sau năm 1947 đã luôn tuyên bố và dùng các hình thức lập pháp để khẳng định các quần đảo trong “đường chín đoạn” là lãnh thổ của TQ. Điều này đã chứng minh chủ trương “đường chín đoạn” mang tính lịch sử. Nhưng cách giải thích này rất đáng buồn cười. Thứ nhất, việc lập pháp chỉ nhằm vào các đảo tại Nam Hải chứ không phải “đường chín đoạn’, “đường chín đoạn” cho tới nay thậm chí vẫn chưa có địa vị pháp lý gì. Thứ hai, tuyên bố và hoạt động lập pháp đều chỉ là hành động bằng miệng và trên giấy tờ, TQ chưa hề hiện thực hóa những việc này...(còn tiếp)

- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
- 心系家乡海洋岛屿
- 越南海警提高国际合作效率
- Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
- 越南努力减少海洋塑料污染
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét