Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016
Người Trung Quốc muốn tìm hiểu về Biển Đông, cần phải biết một vài sự thật
Nhận thức của
người dân Trung Quốc bình thường về vấn đề Biển Đông mới có vấn đề. Cơ bản họ
không hiểu sự thực lịch sử, sự thực cơ bản, thậm chí là kiến thức.
Giáo sư thỉnh
giảng Đại học Columbia, học giả Trương Bác Thụ có những bài phân tích rất sâu sắc
về Biển Đông tại Hội thảo lần thứ 23 Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc của trí thức
gốc Hoa hải ngoại thành lập tại New York.
Chúng tôi đã
giới thiệu và có đôi lời bình luận về những kiến giải của ông trong 2 bài Học
giả gốc Hoa: Tranh chấp Biển Đông khó giải quyết vì "ý thức hệ" và Học
giả gốc Hoa phản bác quan điểm của Trung Quốc về Biển Đông, Trường Sa.
Trong khuôn
khổ bài viết này, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu một đề tài về Biển Đông được
Giáo sư Trương Bác Thụ phát biểu tại cuộc hội thảo này, đồng thời xin có đôi lời
bình luận làm rõ thêm một số vấn đề về pháp lý.
Người Trung
Quốc muốn thảo luận về Biển Đông, trước tiên phải điều chỉnh lại một vài nhận
thức căn bản
"Truyền
thông nhà nước Trung Quốc khi đưa bất kỳ tin tức nào về Biển Đông, dù là trong
chương trình Tin tức hay Tiêu điểm hôm nay của CCTV, rất thích dùng chữ
"gây hấn" để nói về vai trò của Mỹ.
Cho dù đó là
bản tin, hay là bài phỏng vấn, các nhà báo Trung Quốc bao giờ cũng tuân theo
"logic mặc định":
"Biển
Đông là của chúng ta, của chúng ta từ thời cổ đại.
Hiện tại người
Mỹ từ sáng đến tối chỉ tìm cách sinh sự, gây hấn với chúng ta. Đàm phán giữa
chúng ta với các nước ven Biển Đông căn bản là tốt, vấn đề là trong lúc đàm
phán thương lượng, Mỹ luôn tìm cách thọc gậy bánh xe, mà gốc gác vấn đề là họ sợ
Trung Quốc trỗi dậy hòa bình".
Đó là một
khía cạnh.
Một khía cạnh
khác cần chú ý, do chính sách tuyên truyền một chiều và áp đặt của truyền thông
nhà nước Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc hay còn gọi là "chủ nghĩa quốc gia
mới" lên rất cao và khá phổ biến trong dân chúng Trung Quốc.
Tôi đã phát
hiện thấy điều này từ rất lâu về đặc điểm nhận thức và tình cảm của dân chúng
Trung Quốc.
Nếu nói về vấn
đề tham ô tham nhũng, hách dịch cửa quyền thì người dân đều coi đó là kẻ thù,
trăm người như một chửi lãnh đạo tham nhũng.
Nhưng hễ cứ
động đến các vấn đề ngoại giao, hay các vấn đề dân tộc thì họ cũng gần như trăm
người như một, không cần biết đúng sai hư thực, ngay lập tức đứng về phía chính
quyền Trung Quốc.
Dường như họ
nghĩ rằng, đảng Cộng sản Trung Quốc và chính phủ đang bảo vệ "lợi ích quốc
gia", nên họ phối hợp chặt chẽ với truyền thông nhà nước.
Nói cho đúng
hơn, xu hướng nhận thức và tình cảm này là kết quả của hoạt động truyền thông định
hướng có mục đích của nhà nước Trung Quốc.
Chính vì thế
mới nảy sinh vấn đề: rốt cuộc là chuyện Biển Đông, bao gồm các kiến thức cơ bản,
người dân Trung Quốc hiểu được bao nhiêu? Rõ ràng người hiểu không nhiều.
Bởi lẽ truyền
thông nhà nước Trung Quốc cung cấp tin tức về Biển Đông rất hạn chế và đã được
chọn lọc, định hướng từ trước. Internet tại Trung Quốc bị kiểm soát gắt gao, những
gì chính quyền không muốn người dân đọc được thì dân Trung Quốc rất khó đọc được.
Vì thế nhận
thức của người dân Trung Quốc bình thường về vấn đề Biển Đông mới có vấn đề. Cơ
bản họ không hiểu sự thực lịch sử, sự thực cơ bản, thậm chí là kiến thức cơ bản
về Biển Đông.
Đương nhiên
ngay cả bản thân tôi trước kia cũng không hiểu. Từ nhỏ tôi đã được dạy rằng:
"Tổ quốc
vĩ đại đất rộng vật nhiều, Đông kéo đến bãi biển Hoa Đông, Tây trải dài đến cao
nguyên Pamir (vùng ráp gianh 5 nước Afghanistan, Kyrgyzstan, Trung Quốc, Tajikistan,
Pakistan).
Bắc trải dài
đến Mạc Hà, Hắc Long Giang, Nam kéo xuống tận bãi Tăng Mẫu". Bãi Tăng Mẫu
được hiểu là điểm cực Nam của Trung Quốc", chúng tôi được dạy từ nhỏ như
thế.
Nhưng bãi
Tăng Mẫu nằm ở đâu? Sau này xem bản đồ tôi mới thấy, nó ở quá xa Trung Quốc lục
địa. Lại còn có đường 9 đoạn được vẽ như sợi dây thừng thòng xuống bao lấy toàn
bộ Biển Đông, bãi Tăng Mẫu nằm ở cực Nam của đường 9 đoạn.
Do đó khi
chúng ta thảo luận về Biển Đông, đầu tiên chúng ta phải điều chỉnh lại nhận thức
về một vài vấn đề cơ bản, ví như "chủ quyền" với Biển Đông và đường 9
đoạn".
Lai lịch của
đường 9 đoạn mà Giáo sư Trương Bác Thụ cung cấp, chúng tôi đã giới thiệu trong
bài Học giả gốc Hoa phản bác quan điểm của Trung Quốc về Biển Đông, Trường Sa .
Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 đã quy định rõ ràng
"Trung
Quốc tuyên truyền rằng, vùng biển bên trong đường 9 đoạn đều là 'của chúng
tôi'. Thực ra cách nói này vốn mập mờ trong một thời gian khá dài.
Nói thế
nghĩa là sao? Toàn bộ vùng biển bên trong đường 9 đoạn là của Trung Quốc? Hay
là các cấu trúc đảo, đá bên trong đường 9 đoạn là của Trung Quốc?
Chính phủ
Trung Hoa Dân Quốc vẽ ra đường đứt đoạn 11 nét, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kế
thừa và sửa thành đường 9 nét đứt, cả hai đều không nói rõ.
Mặt khác,
Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei cũng tuyên bố chủ quyền đối với một
phần hoặc toàn bộ Biển Đông.
Yêu sách chủ
quyền của Việt Nam cơ bản bao trùm toàn bộ quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng
Sa.
Yêu sách của
Philippines ban đầu bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhưng khoảng 2 năm trở
lại đây có điều chỉnh, thu gọn lại phạm vi.
Nói chung đối
với quần đảo Trường Sa, 5 nước 6 bên đều nói "chỗ này là của chúng
tôi". Vậy làm thế nào để xác định việc quy thuộc của nó?
Vốn dĩ có một
giải pháp rất đơn giản: năm 1982, Liên Hợp Quốc xây dựng Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển (UNCLOS 1982) và đại bộ phận các quốc gia trên thế giới đều ký vào
công ước này, Trung Quốc nằm trong số đó.
UNCLOS 1982
quy định rất rõ, thế nào là lãnh hải, thế nào là vùng đặc quyền kinh tế, làm thế
nào để xác định chúng với những quy định chặt chẽ.
Ví dụ, từ đường
cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển kéo ra ngoài (tối đa)
12 hải lý được gọi là lãnh hải, từ đường cơ sở này kéo ra ngoài 200 hải lý là
vùng đặc quyền kinh tế.
Trong lãnh hải,
anh có chủ quyền tuyệt đối. Trong vùng đặc quyền kinh tế, anh có đặc quyền khai
thác các tài nguyên, kinh tế, gọi là quyền tài phán.
Cứ theo những
quy định này mà áp dụng vào Biển Đông, thì bất luận là Philippines, Việt Nam
hay Trung Quốc, yêu sách chủ quyền đều không hoàn toàn hợp lý. Đương nhiên vô
lý nhất là yêu sách của Trung Quốc.
Tại sao?
Tính từ bờ biển đảo Hải Nam đến Tăng Mẫu (bãi cát ngầm James) cách xa chừng
1500 hải lý, trong khi bãi cát ngầm James chỉ cách bờ biển Malaysia hơn 100 hải
lý.
Cứ theo quy
định của UNCLOS 1982, James là một phần của vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
Malaysia.
Đương nhiên
yêu sách của Việt Nam cũng không hợp lý, Việt Nam gọi cả vùng biển này là Biển
Đông vì nằm ở phía Đông lãnh thổ của mình, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, toàn bộ
đều nằm trong phạm vi chủ quyền của Việt Nam.
Nhưng nếu
theo quy định về vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam cũng chỉ có thể đòi một phần
quần đảo Trường Sa chứ không thể đòi toàn bộ quần đảo.
Philippines
ban đầu cũng đòi cả quần đảo, nhưng theo quy định này Philippines chỉ có thể
yêu sách một phần quần đảo Trường Sa nằm trong phạm vi 200 hải lý vùng đặc quyền
kinh tế.
Riêng Trung
Quốc thì không thể với tới Trường Sa, vì cách lãnh thổ nước này quá xa.
Cứ theo hoạch
định của UNCLOS 1982, Công ước căn bản đã bác bỏ việc quy thuộc cả một vùng Biển
Đông rộng lớn cho một quốc gia cụ thể nào.
Đương nhiên ở
đây còn một vấn đề nữa, là các cấu trúc địa lý ở Biển Đông. UNLCOS 1982 quy định
chỉ có 3 loại với hiệu lực pháp lý tương ứng, đó là đảo, đá và bãi cạn lúc nổi
lúc chìm.
Khái niệm về
đảo khá rõ ràng: là vùng đất bao quanh bởi nước và luôn luôn nổi trên mặt nước
khi thủy triều lên. Đảo mặc nhiên có lãnh hải (không quá) 12 hải lý.
Tuy nhiên đảo
muốn được hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế (không quá) 200 hải lý, nó phải
thỏa mãn điều kiện phù hợp cho con người sinh sống, ví dụ như có thể canh tác,
có nước ngọt...
Nếu cứ theo
tiêu chuẩn này, số cấu trúc ở Trường Sa là đảo theo UNCLOS 1982 vô cùng ít, bao
gồm đảo Ba Bình hiện do Đài Loan chiếm đóng, đảo Nam Yết do Việt Nam chốt giữ,
đảo Thị Tứ đang do Philippines kiểm soát.
Thứ hai là
đá, đó là một cấu trúc địa mạo vẫn nhô lên mặt biển khi thủy triều lên, bao gồm
các mỏm đá. Hiệu lực pháp lý của đá nhỏ hơn đảo, chúng chỉ có lãnh hải (không
quá) 12 hải lý, không thể có vùng đặc quyền kinh tế.
Thứ ba là
bãi cạn lúc chìm lúc nổi. Thủy triều lên chúng ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển,
thủy triều xuống chúng lộ trên mặt nước biển. Chúng không có lãnh hải riêng, và
tất nhiên không có vùng đặc quyền kinh tế."
Vài lời nhận xét
Người viết
cho rằng, những phân tích của Giáo sư Trương Bác Thụ về cơ bản rất khách quan,
xác đáng và có giá trị rất lớn trong phản biện, phản bác các yêu sách vô lý mà
Trung Quốc đòi ở Biển Đông, mặc dù vẫn có một vài điều cần làm rõ.
Có thể
Internet bị kiểm duyệt chặt chẽ tại Trung Quốc, nhưng những trí thức Trung Quốc
chân chính và người dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, công lý sẽ vẫn có cách,
có ngày tìm ra được sự thật, nhờ chính những phân tích khách quan như những gì
Giáo sư Trương Bác Thụ đã và đang làm.
Ở đây chúng
tôi nhận thấy có vài điều cần phải trao đổi cho rõ thêm, đồng thời cũng để những
người Việt Nam chúng ta quan tâm tới chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của
quốc gia, dân tộc ở Biển Đông cần nhìn lại mình và bổ sung những kiến thức pháp
lý cần thiết.
Thứ nhất,
không thể phủ nhận vai trò, vị trí của UNCLOS 1982 đối với việc giải quyết các
tranh chấp phức tạp trên biển và đại dương giữa các nước thành viên Công ước,
nhất là ở Biển Đông.
Điển hình là
Phán quyết Trọng tài trong vụ kiện giữa Philippines với Trung Quốc được Tòa Trọng
tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 tuyên, đã làm rất rõ việc ứng dụng
và giải thích UNCLOS ở Biển Đông.
Tuy nhiên,
UNCLOS 1982 không phải chìa khóa vạn năng cho mọi tranh chấp phức tạp ở Biển
Đông.
Bên cạnh
tranh chấp về ứng dụng, giải thích Công ước mà Philippines xác định làm nội
dung chính để kiện Trung Quốc, còn có những tranh chấp về chủ quyền đối với quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ được giải quyết dựa vào hệ thống các quy tắc pháp lý và thực
tiễn quốc tế hoàn toàn khác với UNCLOS 1982, đó là các quy tắc và thực tiễn
pháp lý quốc tế về thụ đắc lãnh thổ.
Vì vậy chúng
tôi chưa đồng tình với Giáo sư Trương Bác Thụ ở chỗ, coi UNCLOS 1982 là chìa
khóa, căn cứ giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường
Sa.
Thứ hai, nói
Việt Nam đòi "chủ quyền" toàn bộ Biển Đông như cách hiểu của Giáo sư
Trương Bác Thụ và có lẽ của cả không ít người Việt Nam, là không chính xác, có
thể do ngộ nhận từ tên gọi.
Việt Nam có
chủ quyền tuyệt đối với nội thủy, lãnh hải cũng như 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa; có quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục
địa hợp pháp thành lập theo UNCLOS 1982.
Ngoài phạm
vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo UNCLOS 1982 ở Biển
Đông là vùng biển quốc tế.
Còn về chủ
quyền được Nhà nước Việt Nam xác lập một cách hòa bình, hợp pháp và liên tục từ
khi còn là đất vô chủ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa theo các nguyên tắc,
thực tiễn pháp lý về thụ đắc lãnh thổ, chúng tôi đã có nhiều lần giới thiệu các
bài phân tích của Tiến sĩ Trần Công Trục.
Do đó, tìm
hiểu những nghiên cứu và phát biểu của Giáo sư Trương Bác Thụ thiết nghĩ cũng
là một cơ hội rất tốt cho những ai quan tâm đến Biển Đông bổ sung thêm các kiến
thức pháp lý cần thiết khi tiếp cận những vấn đề tranh chấp phức tạp ở khu vực
này để có cái nhìn khách quan, thượng tôn pháp luật.
Từ đó mới có
thể góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích "hợp pháp" của quốc
gia, dân tộc. Nếu thiếu ngọn đuốc pháp lý dẫn đường, rất có thể chúng ta sẽ rơi
vào trạng thái chủ nghĩa dân túy chẳng khác gì Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ ba, có lẽ
Hội thảo lần thứ 23 của Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, New York đã diễn ra trước
thời điểm Phán quyết Trọng tài 12/7 và bây giờ tạp chí Minh Kính mới đăng công
khai, miễn phí nội dung cuộc hội thảo này.
Vì thế nên
có những chi tiết, khía cạnh pháp lý chưa được Giáo sư Trương Bác Thụ cập nhật.
Đó là Phán
quyết Trọng tài đã làm rất rõ quy chế pháp lý của các cấu trúc ở Trường Sa,
trong đó không một cấu trúc nào phù hợp cho con người sinh sống mà không cần sự
can thiệp từ bên ngoài, do đó không cấu trúc nào ở Trường Sa có vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý, kể cả Ba Bình, Nam Yết hay Thị Tứ.
Cá nhân người
viết tin rằng, với thái độ khách quan cầu thị, thượng tôn pháp luật mà Giáo sư
Trương Bác Thụ đã thể hiện, chắc chắn ông sẽ đồng tình cao và ủng hộ Phán quyết
này của Tòa Trọng tài.

- Tàu chiến Mỹ áp sát đảo nhân tạo ở biển Đông
- G7 lên tiếng về Biển Đông, Trung Quốc nóng mặt
- Thẩm phán Philippines kêu gọi kiện Trung Quốc vì đe dọa chiến tranh
- TT Duterte: Chủ tịch Trung Quốc dọa chiến tranh nếu Manila khoan dầu
- Cuộc họp các Quan chức Cao cấp ASEAN-Trung Quốc về triển khai DOC
- Kiên quyết phản đối những hoạt động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam
- Biển Đông: Một thảm họa môi trường tiềm tàng?
- Chính quyền Donald Trump nên đối phó với Trung Quốc như thế nào?
- Tọa đàm về vấn đề Biển Đông trước thềm Hội nghị cấp cao ASEAN 30
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 3)
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 2)
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 1)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét