Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 6)
4. Trung Quốc cố ý xuyên
tạc công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, công bố “Tứ Sa”, “Nam Hải
chư đảo”, “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể mới ở Biển Đông, và cuộc chiến
công hàm Việt Nam - Trung Quốc.
4.1. Trung Quốc cố ý
xuyên tạc công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958.
Ngày 17/4/2020, Trung Quốc
gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong đó, Trung Quốc khẳng định Chính
phủ Việt Nam cũng đã công nhận điều này thông qua công hàm 1958 của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng. Đây là mưu đồ của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc nhằm “đánh lận con
đen” “gắp lửa bỏ tay người”, trắng trợn vu cáo một dữ kiện lịch sử, pháp lý mà
Trung Quốc đã và đang sử dụng để khẳng định không có quốc gia nào phản đối yêu
sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Như chúng ta đã biết, ngày 04/9/1958, Trung Quốc
ban hành bản tuyên bố về hải phận. Bản tuyên bố của Trung Quốc gồm 4 điều: i) Thứ nhất, về bề rộng hải phận Trung Quốc
là 12 hải lý. Điều này áp dụng cho những nơi mà nước này gọi là “Lãnh thổ Trung
Quốc trên đất liền và các hải đảo duyên hải, Đài Loan cùng các phụ cận…”; ii)
Thứ hai, Trung Quốc xác định các đường cơ sở của hải phận dọc theo đất liền
Trung Quốc và các đảo ngoài khơi được xác định bởi “các đường thẳng nối liền mỗi
điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền ở các đảo ngoại biên ngoài khơi. Phần biển
12 hải lý tính ra từ đường cơ sở của hải phận Trung Quốc…” iii) Thứ ba, Trung
Quốc yêu cầu các nước không được tự ý xâm phạm hải phận và vùng trời trên hải
phận của nước này; iv) Thứ tư, Trung Quốc tuyên bố điều 2 và 3 kể trên cũng áp
dụng các quan điểm mà Trung Quốc gọi là: Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo
Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam
Sa…(28)
Công ước về lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải 1958 chưa qui định được chiều rộng lãnh hải (12 hải lý
như Trung Quốc tuyên bố). Khi đó Trung Quốc không được Hội nghị về luật Biển
Liên Hợp Quốc lần thứ nhất (UNCLOS 1) tổ chức ở Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 24/2 đến
27/4/1958 mời tham gia. Sau tuyên bố của Trung Quốc vào ngày 4/9/1958, đến ngày
14/9/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai và Hội đồng Nhà
nước Trung Quốc để khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam đối với tuyên bố
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm với mục
đích ngoại giao, thể hiện sự đoàn kết về mặt chính trị và ủng hộ lập trường hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc. Các quốc gia trong phe XHCN như Liên Xô cũng làm
như vậy, đây là động thái hoàn toàn bình thường của các nước XHCN trong hoàn cảnh
chiến tranh lạnh, đối đầu với phe TBCN do Mỹ đứng đầu. Như vậy, bản chất công
hàm Phạm Văn Đồng là một văn kiện ngoại giao đơn phương với mục đích rất đơn giản.
Thể hiện sự đoàn kết với Trung Quốc chống lại Mỹ và các nước thuộc phe TBCN
(29). Giá trị pháp lý của công hàm Phạm Văn Đồng không phụ thuộc vào việc gọi
văn kiện này là công hàm hay công thư. Một nguyên tắc của luật pháp quốc tế là
khi xem xét một văn kiện được ký kết, cần phải tìm hiểu ý định thực sự của người
ký văn bản trong phạm vi câu chữ của văn kiện. Đây chính là nguyên tắc “trong 4
góc” và “cái đặc thù làm chủ cái tổng quát”. Theo nguyên tắc này, không được
phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người ký văn kiện
trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện (trong 4 góc của các trang
giấy văn kiện). Có nghĩa là, công văn Phạm Văn Đồng gồm 2 đoạn, đoạn thứ nhất
chỉ nói về việc ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc:
“Chính phủ nước Việt Nam DCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4/9/1958
của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của
Trung Quốc”. Đoạn thứ hai, văn kiện đã làm rõ hơn: “Triệt để tôn trọng hải phận
12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Công hòa nhân dân Trung Hoa
về mặt bể”. Như vậy, cái đặc thù “12 hải lý trên mặt bề “đã làm rất rõ công hàm
Phạm Văn Đồng chỉ nói về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, chứ không nói về vấn
đề khác. Có nghĩa là, công hàm Phạm Văn Đồng đơn giản là một văn kiện ngoại
giao đơn phương với từ ngữ rất khéo léo. Mục đích là để thể hiện sự ủng hộ của
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với tuyên bố về hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc. nhưng tuyệt nhiên không thể hiện sự công nhận của Việt Nam đối với
chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều học giả,
luật sư về công pháp quốc tế trong, ngoài nước đều đồng ý với quan điểm này
(30).
Mặt khác, Việt Nam không
chỉ thực hiện chủ quyền liên tục ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa suốt
giai đoạn chiến tranh với Pháp (1946-1954), mà còn cả giai đoạn sau đó
1954-1974 và giai đoạn hiện nay. Cụ thể, ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva được
ký, theo Hiệp định này, lãnh thổ Việt Nam tạm chia thành hai vùng: Miền Bắc do
Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH) kiểm soát, miền Nam do Liên hiệp Pháp và các
lực lượng thân Pháp, trong đó có Quốc gia Việt Nam (QGVN) kiểm soát. Ranh giới
tạm thời là vỹ tuyến 17. Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng
Bảo Đại, lên làm Quốc trưởng của QGVN. Sau đó QGVN đổi thành Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) do Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Năm 1956, quân đội VNCH đã trú đóng ở
phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Như vậy, năm 1958, chính
VNCH (chứ không phải Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) là thực thể chính trị duy nhất
thực sự thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vậy nên, dù
công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể hiện sự phản đối trực tiếp tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo (vì VNDCCH không phải là thực
thể chính trị thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) nhưng
sự không phản đối đó không tạo ra bất cứ cơ sở pháp lý nào để nói rằng Việt Nam
đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc (31). Theo công ước Montevideo
1933 về quyền nghĩa vụ của các quốc gia, “một quốc gia là một chủ thể của luật
quốc tế, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: có dân cư ổn định, có lãnh thổ xác định,
có chính phủ và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế” và “sự tồn tại về
chính trị của các quốc gia độc lập với sự công nhận của các quốc gia khác”.
Giai đoạn 1954-1975, chiếu theo công ước Montevideo 1933, trên lãnh thổ Việt
Nam tồn tại hai thực thể chính trị với tư cách quốc gia: VNDCCH và VNCH. Vấn đề
quan trọng nằm ở chỗ: dù các nước có tuyên bố công nhận hay không công nhận tư
cách quốc gia của VNDCCH hay VNCH thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng tư cách
quốc gia của họ. Như vậy, theo luật pháp quốc tế, VNCH hoàn toàn có tư cách quốc
gia để thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, còn
VNDCCH thì trong thời gian đó không có thẩm quyền với hai quần đảo đó. Như vậy,
VNDCCH không nhất thiết phải tuyên bố phản đối chủ quyền của Trung Quốc năm
1958 và sự im lặng của VNDCCH trong thời gian này không làm yếu đi danh nghĩa
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo (32).
Theo công ước
Montervideo 1933 quy định sự thay đổi chính quyền không làm thay đổi quốc gia.
Khi trên một lãnh thổ quốc gia có một chính quyền bị thay đổi bởi một chính quyền
khác, chính quyền mới sẽ kế thừa các di sản của chính quyền trước đó, kể cả
lãnh thổ, các hiệp ước, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế, các khoản
nợ…Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam từ sau khi ra đời Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960, và kết thúc bằng chiến thắng ngày
30-01-1975 và thành lập Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, thực chất là việc thực hiện
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam trong việc lựa chọn chế độ chính trị theo
đúng các quy định của luật pháp quốc tế. Sau ngày 30-4-1975, CHMNVN đã thay thế
VNCH và trở thành thể chế chính trị duy nhất đại diện cho nhân dân miền Nam. Vì
vậy, CHMNVN có quyền và trong thực tế đã kế thừa một cách hợp pháp chủ quyền của
VNCH ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính Trung Quốc cũng là một trong
những quốc gia đầu tiên công nhận CHMNVN là đại diện duy nhất của nhân dân miền
Nam Việt Nam. Trung Quốc cũng đã gián tiếp công nhận rằng theo luật pháp quốc tế,
sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của VNCH, CHMNVN đã chính thức kế thừa chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (33).
Năm 1976 đã diễn ra cuộc
Tổng tuyển cử, thống nhất đất nước Việt Nam. Toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam chỉ còn
một quốc gia với chính quyền duy nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN). Đó cũng là dấu mốc CHXHCNVN kế thừa chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa từ CHMNVN (chứ không phải từ VNDCCH, vì thực thể chính trị này
không có thẩm quyền và không được giao quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa).
Như vậy việc kế thừa chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
CHXHCNVN đã được thực hiện theo đúng luật pháp quốc tế. Điều đó một lần nữa khẳng
định rằng Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị pháp lý và không ảnh hưởng
tới chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (34).
Gần đây Trung Quốc liên
tục đưa công hàm lên Liên Hợp Quốc, trích dẫn công hàm Phạm Văn Đồng 1958 và
cáo buộc Việt Nam vi phạm nguyên tắc Estoppel. Đó là mưu đồ nhằm cố tình bẻ
cong sự thật, bẻ cong pháp luật, kể cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS) năm 1982 mà Trung Quốc cũng là thành viên. Cần phải khẳng định đanh
thép rằng Việt Nam không vi phạm nguyên tắc Estoppel. Estoppel là một nguyên tắc
của luật pháp quốc tế, có nghĩa là một chủ thể luật pháp (người hoặc cơ quan, tổ
chức, quốc gia) không được phép nói hoặc hành động ngược với những gì mình đã
nói và hành động trước đó.
Có nhiều học giả đã bàn
luận về việc áp dụng nguyên tắc cho trường hợp công hàm Phạm Văn Đồng 1958.
Đáng kể nhất là thảo luận của Tiến sĩ, Luật sư Đặng Minh Thu. Theo đó, căn cứ
vào thực tiễn quốc tế và các án lệ của các tòa quốc tế, muốn chứng minh Việt
Nam vi phạm nguyên tắc Estoppel thì phải chứng minh rằng công hàm Phạm Văn Đồng
1958 có ý định và nói rõ ràng rằng chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là thuộc Trung Quốc, và điều này phải được nói một cách liên tục và có hệ thống.
Tuy nhiên, theo lập luận
của PGS. TS. Vũ Thanh Ca, chuyên gia về Luật Biển quốc tế Đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế và khoa học công nghệ, Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam, thì: “Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 ngoài việc ủng
hộ quan điểm vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, thì hoàn toàn không đả động đến 2 quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thêm nữa, VNDCCH càng không nói một cách liên tục và
có hệ thống rằng chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung
Quốc. Mặt khác, 2 quần đảo này lúc đó thuộc VNCH quản lý, thế nên VNDCCH không
có quyền có những tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo này (35).
--------
(28) Đỗ Thiện “Biển
Đông: hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng”. https:
plo.vn/thoi-su/bien-dong-hieu-dung-y-nghia-cong-ham-pham-van-dong 910058
(29) Đỗ Thiện “Biển
Đông: hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng”. https:
plo.vn/thoi-su/bien-dong-hieu-dung-y-nghia-cong-ham-pham-van-dong 910058, trang
5.
(30) Đỗ Thiện “Biển
Đông: hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng”. https: plo.vn/thoi-su/bien-dong-hieu-dung-y-nghia-cong-ham-pham-van-dong
910058, trang …
(31) Đỗ Thiện thực hiện
“Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng”. https://plo
vn/thoi-su/bien-dong-trung-quoc-co-y-xuyen-tac-cong-ham-pham-van-dong-910577.html.
(32) Đỗ Thiện thực hiện
“Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng”. https://plo
vn/thoi-su/bien-dong-trung-quoc-co-y-xuyen-tac-cong-ham-pham-van-dong-910577.html,
trang 2.
(33) Đỗ Thiện thực hiện
“Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng”. https://plo
vn/thoi-su/bien-dong-trung-quoc-co-y-xuyen-tac-cong-ham-pham-van-dong-910577.html,
trang 3, 4
(34) Đỗ Thiện thực hiện
“Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng”. https://plo
vn/thoi-su/bien-dong-trung-quoc-co-y-xuyen-tac-cong-ham-pham-van-dong-910577.html.,
trang 4

- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét