Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 8)
4.3. Cuộc chiến công hàm
giữa Việt Nam, Malaysia, Philippins với Trung Quốc.
Trước những hành động lợi
dụng tình hình thế giới đang phải gồng mình lên tập trung vào công cuộc chống lại
đại dịch Covid-19, Trung Quốc đã tăng cường đẩy mạnh các hoạt động phi pháp nhằm
thực hiện các mưu đồ độc chiếm Biển Đông với những thủ đoạn, âm mưu mới. Đặc biệt,
sau việc tàu Đại chất Hải Dương 8 và các tàu cá của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc
quyền kinh tế của nhiều quốc gia ven biển, trong đó có Indonexia, Malaysia và
Việt Nam. Cuộc đấu tranh pháp lý về Biển Đông tại Liên Hợp Quốc được bắt đầu từ
việc Malaysia gửi lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) Báo cáo ranh giới thềm
lục địa mở rộng tại khu vực phía Bắc Biển Đông ngày 12/12/2019. Ngay trong
ngày, Trung Quốc đã gửi Công hàm số CML/14/2019 tới Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
(TTKLHQ) phản bác Báo cáo này của Malaysia. Tại công hàm này, Trung Quốc cho rằng:
(i) Trung Quốc có chủ quyền với 4 nhóm đảo là Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt
Nam), Trung Sa, Đông Sa (gọi chung là Nam Hải chư đảo; ii) Trung Quốc có các
vùng biển (nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa) và các nhóm thực thể; iii) Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông. Tiếp
theo, ngày 06/3/2020, Philippins gửi lên TTKLHQ: i) Công hàm số 000191-2020 phản
đối công hàm số CML/14/2019 của Trung Quốc, Philippins tuyên bố các yêu sách của
Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển năm 1982 (ANCLOS); ii) Công hàm số 000191-2020 của Philippins
đưa ra ý kiến về Báo cáo của Malaysia. Ngày 23/3/2020, Trung Quốc gửi công hàm
CML/11/2020 lên TTKLHQ để phản bác các Công hàm của Philippins. Trong Công hàm
này, Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa (của Việt Nam), bãi
Scarborough (mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham) và các vùng biển lân cận; yêu
sách quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như
vùng đáy biển và vùng đất dưới đáy biển. Trung Quốc tiếp tục cũng nhắc lại yêu
sách quyền lịch sử ở Biển Đông. Trong bối cảnh đó, ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi
Công hàm số 22/HC-2020 lên TTKLHQ để phản bác hai Công hàm CML/14/2019 và
CM/11/2020 của Trung Quốc. Ngày 10/4/2020, Việt Nam gửi hai Công hàm số
24/HC-2020 và 25/HC-2020 lên TTKLHQ lần lượt nêu ý kiến về báo cáo của Malaysia
và về các Công hàm của Philippins. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc đã gửi Công hàm số
CML/42/2020 phản bác lại Công hàm của Việt Nam. Trong 3 công hàm của Việt Nam gửi
TTKLHQ, Công hàm số 22/HC-2020 đã trình bày một cách hệ thống và đầy đủ các
quan điểm của Việt Nam về các vấn đề pháp lý chính ở Biển Đông.
Chỉ trong phạm vi một
trang giấy, Công hàm số 22/HC-2020 đã trình bày quan điểm của Việt Nam về 3 vấn
đề quan trọng: i) Các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông; ii) Yêu sách của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; iii) Việc áp dụng Công ước
UNCLOS 1982 ở Biển Đông. Các quan điểm này cần được hiểu đầy đủ và đúng đắn
trong mối liên hệ với các Công hàm của các nước và cuộc đấu tranh chính trị - ngoại
giao, pháp lý và quản lý thực tế trên thực địa Biển Đông, cụ thể:
i) “Việt Nam phản đối
yêu sách của Trung Quốc, các yêu sách của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông”.
Sau khi có phán quyết của
Tòa Trọng tài Quốc tế (PCA) trong vụ kiện Biển Đông (12/7/2016), Trung Quốc đã
có dấu hiệu thúc đẩy yêu sách mới, tạm gọi là yêu sách “Tứ Sa” nhằm thay thế
yêu sách “đường 9 đoạn” mà Tòa đã bác bỏ. Bước điều chỉnh này xuất hiện ngay
trong bản Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cùng ngày Tòa đưa ra phán quyết
và Sách Trắng “Trung Quốc kiên trì giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và
Philippins thông qua đàm phán” của Quốc Vụ Viện Trung Quốc (13/7/2016), một
ngày sau phán quyết), trong đó lần đầu tiên Trung Quốc đề cập tới lập trường về
“Nam Hải Chư đảo (các đảo ở Biển Đông). Và trong Công hàm CML/14/2019 ngày
12/12/2019 là lần đầu tiên Trung Quốc đưa công khai về đầy đủ lập trường liên
quan đến “Nam Hải Chư đảo” ở Liên Hợp Quốc.
Yêu sách “Tứ Sa”, lập
trường mới sau Phán quyết của Trung Quốc ở Biển Đông có những điểm đáng chú ý
như sau: i) Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với 4 nhóm đảo, gồm Đông Sa
(Pratas), Tây Sa (Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam ), Nam Sa (Trường Sa
thuộc chủ quyền của Việt Nam) và Trung Sa (bãi ngầm Macclesfields, đây là một
bãi ngầm hoàn toàn dưới nước ngay cả khi thủy triều thấp). Trung Quốc gọi 4
nhóm đảo này là “Nam Hải Chư đảo”;
ii) Trung Quốc yêu sách đầy đủ các vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa từ các nhóm quần đảo này; iii) Trung Quốc yêu
sách quyền lịch sử ở Biển Đông. Bên cạnh lập trường chính thức nêu trên về “Nam
Hải Chư đảo”, Trung Quốc còn có yêu sách: i) Với các bãi ngầm và các cấu trúc
lúc chìm, lúc nổi ở Trường Sa, Macclefields Bank, thậm chí với những bãi ngầm
hoàn toàn trong thềm lục địa của Việt Nam như Bãi Tư Chính; ii) Xác lập được cơ
sở bao quanh các nhóm đảo để từ đó yêu sách đầy đủ các vùng biển, bao gồm cả
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ “đường cơ sở quần đảo” như một quốc
gia quần đảo.
Yêu sách “Tứ Sa” được
đánh giá là nguy hiểm vì kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng hơn yêu sách “đường
chín đoạn”. Cả hai yêu sách này của Trung Quốc đều không phù hợp với luật pháp
quốc tế. Việc Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với các bãi ngầm ở Biển Đông,
quy thuộc thành phần đảo, từ đó xác lập đầy đủ các vùng biển bao quanh là hoàn
toàn trái với UNCLOS 1982. Theo quy định, các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm,
lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng (38).
ii) “Việt Nam có đầy đủ
chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và
Trường Sa phù hợp với quy định của Luật pháp quốc tế”.
Việt Nam một lần nữa khẳng
định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là lập trường nhất
quán đã được Việt Nam khẳng định trong các Sách Trắng về chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong các năm 1975, 1979, 1981,
1988. Lập trường này cũng được thể hiện nhiều lần trong các văn bản lưu hành tại
Liên Hợp Quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan. Việt
Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh Việt Nam là quốc
gia đầu tiên làm chủ thực sự, chiếm hữu đầy đủ, hòa bình, liên tục đối với
Hoàng Sa và Trường Sa kể từ khi hai quần đảo này chưa được quốc gia nào yêu
sách. Bên cạnh đó, nhiều văn kiện lịch sử và địa lý của Trung Quốc cũng chứng
minh cho đến đầu thế kỷ XX, các nhà phong kiến Trung Quốc chưa bao giờ có yêu
sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều bản đồ do Phương Tây vẽ đều thể hiện đảo Hải Nam là điểm cực Nam của
Trung Quốc. Hơn nữa, cộng đồng quốc tế đã chỉ ra nhiều điểm thiếu thuyết phục
và phản bác các bằng chứng lịch sử mà Trung Quốc đưa ra khi yêu sách chủ quyền
đối với hai quần đảo này (39).
-----------
(38) Nguyễn Thị Lan
Hương “Phân tích Công hàm Việt Nam gửi Tổng thư ký LHQ ngày 30/3/2020” https://
www.printfriendly. com/p/g/8VAZFt.
(39) Nguyễn Thị Lan Hương “Phân tích Công hàm Việt Nam gửi Tổng thư ký LHQ ngày 30/3/2020” https:// www.printfriendly. com/p/g/8VAZFt, trang 3.

- Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
- 越南努力减少海洋塑料污染
- Việt Nam tăng cường quản lý giảm ô nhiễm rác thải nhựa đại dương
- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét