Home » biendao
Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013
Những thuận lợi và khó khăn của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông
Tranh
chấp Biển Đông đang ngày càng diễn biến phức tạp mà nguyên nhân chủ yếu xuất
phát từ sự gây hấn, ngang ngược của TQ. Cùng với việc đưa ra yêu sách “Đường
lưỡi bò” và tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, TQ tăng cường sức mạnh hải
quân, liên tiếp có những động thái nhằm khẳng định chủ quyền của mình trên thực
địa như khảo sát dầu khí, tập bắn đạn thật, tập trận, xây dựng các công trình cơ
sở vật chất trên các đảo Trung Quốc chiếm đóng… Trong tranh chấp ở Biển Đông,
với vị thế nước lớn, Trung Quốc có những lợi thế so với các nước liên quan đến
tranh chấp, tuy nhiên, Trung Quốc cũng gặp không ít những bất lợi trong quá
trình khẳng định chủ quyền của mình tại khu vực này.
Về yếu tố thuận lợi:
Thứ nhất, Trung Quốc có sức mạnh và vị
thế vượt trội về ngoại giao, kinh tế, quân sự so với các nước liên quan tranh
chấp Biển Đông. Là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới và với vị thế nước lớn,
Trung Quốc có điều kiện để lôi kéo, tác động gây ảnh hưởng nhằm tranh thủ sự
ủng hộ của các nước, nhất là Trung Quốc đã dùng sức mạnh kinh tế, quân sự để gây
chia rẽ, phân hóa lập trường của các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Điển
hình là thời gian gần đây, Trung Quốc đã tăng cường đầu tư, cung cấp các khoản
viện trợ lớn cho Lào và Campuchia nhằm lôi kéo, gia tăng ảnh hưởng và chia rẽ
hai nước này với Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để răn
đe các nước yếu hơn trong tranh chấp Biển Đông. Báo chí Trung Quốc nhiều lần
đăng tải các thông tin kích động cuộc tấn công quân sự nhằm vào Việt Nam,
Philippines…
Thứ
hai, chiến dịch tuyên truyền vận động của Trung Quốc rất bài bản và thống
nhất. Từ rất lâu, Trung Quốc đã chủ động tuyên truyền về chủ quyền Biển Đông
một cách toàn diện từ địa phương đến trung ương, bằng nhiều hình thức và các
kênh khác nhau một cách thống nhất và liên tục. Theo thống kê không chính thức,
TQ đã có hàng trăm công trình nghiên cứu tầm cỡ về Biển Đông, đã có rất nhiều
công trình khoa học, tạp chí nổi tiếng thế giới đã đăng tải bản đồ, bài viết có
ảnh minh họa thể hiện rõ “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc, thậm chí trang web
Google cũng đã từng đăng bản đồ trực tuyến có “Đường lưỡi bò”. Trung Quốc có
đội ngũ chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông đông đảo và được đầu tư cẩn thận. Trung
Quốc đã có những bước đi đầy chủ ý, lấn dần từng bước với mục đích tranh thủ sự
đồng tình của cộng đồng quốc tế.
Về yếu tố bất lợi:
Thứ nhất, xu thế hòa bình, hợp tác cùng
phát triển là xu thế chủ đạo, chi phối cục diện thế giới và khu vực; hợp tác đa
phương được coi là phương thức hữu hiệu để xử lý các vấn đề chung của thế giới.
Trong bối cảnh đó, “hòa bình, ổn định và phát triển” ở Biển Đông được cộng đồng
quốc tế quan tâm và ủng hộ. Các nước, đặc biệt là các nước lớn (Mỹ, Nhật Bản,
Australia,..) đều có chung lập trường giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua
biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển năm 1982 (UNLOS) và thực thi nghiêm chỉnh DOC tiến tới xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử (COC); ủng hộ đàm phán đa phương, phản đối đe dọa hoặc sử dụng
vũ lực.
Thứ hai, phần lớn các tuyên bố của Trung
Quốc là không có cơ sở về luật pháp quốc tế, đặc biệt là yêu sách “Đường lưỡi
bò” hoàn toàn trái với UNLOS và bị cộng đồng quốc tế phản đối mạnh mẽ. Các học
giả quốc tế cho rằng yêu sách trên của Trung Quốc lần đầu tiên được công bố
chính thức vào năm 2009 chứ không phải năm 1947 như Trung Quốc đã tuyên bố,
“Đường lưỡi bò” không thể hiện tọa độ cụ thể và dư luận quốc tế cho rằng tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc thể hiện qua “Đường lưỡi bò” là mập mờ, khó hiểu,
không có cơ sở pháp lý, là trở ngại đối với tự do hàng hải ở Biển Đông.
Thứ ba, chiến lược quay trở lại châu Á –
Thái Bình Dương của Mỹ đã tạo ra cuộc cạnh tranh ảnh hưởng quyết liệt tại khu
vực này nói chung và Biển Đông nói riêng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tại ARF 17 (Hà
Nội, tháng 7/2011), Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tuyên bố nước Mỹ có “lợi ích
quốc gia” về tự do hàng hải trên Biển Đông. Đây được coi là tuyên bố mạnh nhất
của Mỹ đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông. Mặc dù lập trường chính thức của Mỹ
là không đứng về bên nào trong tranh chấp Biển Đông nhưng Mỹ tuyên bố sẽ đảm
bảo an ninh và tự do hàng hải, phản đối mọi đe dọa hoặc sử dụng vũ lực của bất
kỳ bên nào. Mục đích sâu xa của chiến lược quay trở lại châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ là nhằm phong tỏa, kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Với sự
hiện diện của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói
riêng khiến Trung Quốc phải dè chừng, thận trọng hơn trong chính sách Biển Đông.
Thứ tư, vấn đề Biển Đông được đưa vào
nội dung, chương trình nghị sự tại các hội nghị, diễn đàn ASEAN và khu vực châu
Á – Thái Bình Dương. TQ luôn giữ lập trường giải quyết tranh chấp Biển Đông thông
qua đàm phán song phương giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp vì điều này có
lợi cho Trung Quốc. Theo các học giả quốc tế, TQ càng ngăn cản thì vấn đề BĐ
càng được “quốc tế hóa”, trở thành chủ đề thường xuyên tại các diễn đàn quốc tế
và khu vực như Hội nghị cấp cao ASEAN, Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Hội nghị
Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (AMM), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), đặc biệt là
Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (AMM+) với sự tham dự của các nước
lớn (Mỹ, Nga…).
Thứ năm, mặc dù nội bộ ASEAN vẫn chưa
được thống nhất, đồng thuận trong vấn đề Biển Đông, chủ yếu là do một số nước
vì lợi ích của mình không muốn làm ảnh hưởng quan hệ với Trung Quốc, tuy nhiên,
ASEAN vẫn là một khối thống nhất để giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông với
Trung Quốc, điển hình là việc ASEAN đang nỗ lực hết sức để cùng với Trung Quốc
đàm phán và đi đến ký kết Bộ Quy tắc ứng xử COC. Tích cực tham gia giải quyết
tranh chấp Biển Đông, ASEAN không những đảm
bảo được hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực mà còn nâng cao uy tín, vị
thế của khối trước cộng đồng quốc tế.
Ngoài
những vấn đề bất lợi nói trên, chính
sách ngoại giao nước lớn, bề trên của Trung Quốc thể hiện qua việc chèn ép các
nước nhỏ, cách hành xử ngang ngược, khiêu khích… đã khiến cộng đồng quốc tế
ngày càng không đồng tình, có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Trung Quốc. Đây
cũng chính là điều bất lợi nữa của Trung Quốc trong quá trình khẳng định chủ
quyền của mình ở Biển Đông.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét