越南与跨太平洋伙伴关系协议的谈判进程 (继续)

00:33 |
 

目前谈判已进入决定性阶段,各方的利益发生激烈得摩擦。谈判过程剩余的问题不仅对越南而且对其他发展国家都是非常辣手的问题。解决谈判的僵局需要各方高层领导的决心和行动。谈判TPP的演变郑给越南带来一些机会以及挑战。为了把握好机会,应对各种挑战与困难,越南要尽早做出谈判的方案,需要有关部门的积极参与以及高度集中;需要准备实施TPP的总体规划,其中要特别规划注意法律调整的路程,加强宣传工作以便提高企业以及有关部门的认识。关于谈判主张,越南要体现出决心,同时在谈判过程中要坚持,要求发达国家在一些存在明显的发展水平以及实施能力的问题中要给越难以及其他发展中国家提供合适的适应进程。另外,越南也要密切关注美国与日本的谈判,做出合适的谈判方案,确保越南的最佳利益。参加家谈判的各部门要与具有共同观点的其他参加谈判的国家密切配合以便在谈判中缺的更加有利的地位。在与美国的双边谈判中,越南需要维持谨慎观点,在双赢基础上进行谈判。
参加TPP是越南党、政府的重要主张,不仅具有重要的政治、经济意义,而且还体现了越南更深远的融入国际社会,特别是在压塌地区的政策。越南以成立员国的资格加入TPP将带来重大的利益,在今后与其他希望加入TPP的国家进行谈判时将取得优势,同时这也是美国承认越南是市场经济的基础。另外,加入了TPP,越南也有机会接近其他成员国的市场,吸收外国投资。不仅如此,参加了TPP将为越南进一步融入全球经济体系中创造有利的条件,在中国与美国中间找到平衡点,确保越南在地区中的利益。越南企业也将有机会接近国际先进的标准,为提高越南企业在国际市场中做出准备。
Đọc thêm...

Việt Nam và tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Tiếp theo Kỳ I)

00:29 |


 
Hiện đàm phán đã đi vào giai đoạn quyết định, với sựcọ xát mạnh về lợi ích của các bên. Các vấn đề còn lại trong đàm phán đều là những vấn đề gai góc không chỉ đối với Việt Nam mà ngay cả các nước phát triển. Việc tháo gỡ bế tắc trong các vấn đề này cần có quyếtđịnh từ cấp cao của tất cả các bên. Diễn biến quá trình đàm phán TPP đang xuất hiện một số thời cơ và thách thức với Việt Nam. Để tận dụng thời cơ và chủ độngđối phó với các thách thức, khó khăn, Việt Nam cần sớm có phương án đàm phán cùng với sự tham gia tích cực hơn, mức độ tập trung cao hơn của các bộ, ngành liên quan; có đề án tổng thể chuẩn bị cho việc thực thi TPP, đặc biệt xây dựng lộ trình cụ thể cho việc điều chỉnh luật pháp, tăng cường công tác truyền thôngđể nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Riêng vềchủ trương đàm phán, Việt Nam cần thể hiện rõ quyết tâm, kiên trì trong đàm phán, yêu cầu các nước phát triển có lộ trình phù hợp cho Việt Nam và các nướcđang phát triển khác trong các vấn đề có sự chênh lệch về trình độ phát triển và năng lực thực thi. Ngoài ra, ta cần theo dõi sát đàm phán song phương giữa Mỹvà Nhật Bản về các vấn đề trong TPP để đưa ra phương án phù hợp, đảm bảo lợi ích cao nhất của Việt Nam. Các cơ quan tham gia đoàn đàm phán nghiên cứu kỹ hơn khả năng phối hợp lập trường với các nước có cùng quan điểm để tạo thế mặc cả tốt hơn trong đàm phán, đặc biệt để đối phó với Mỹ. Trong đàm phán song phương với Mỹ, Việt Nam cần tiếp tục duy trì quan điểm thận trọng, mặc cả các vấn đề đàm phán trên cơ sở hai bên cùng có lợi.

Việc tham gia TPP của Việt Nam là một chủ trương lớn, quan trọng của Đảng và Nhà nước, không chỉ có ý nghĩa về chính trị, kinh tế đối ngoại mà còn thể hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước trong giai đoạn mở cửa hội nhập sâu rộng, nhất là góp phần quan trọng trong việc triển khai chiến lược hội nhập tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Việt Nam gia nhập TPP sẽ có nhiều lợi thế do là nền kinh tế đang nổi tại khu vực, nhiều điểm thuận lợi về kinh tế,chính trị, xã hội. Việt Nam được tham gia TPP, một tổ chức lớn từ đầu với vai trò thành viên sáng lập và được hoạch định “luật chơi”, điều này đồng nghĩa Việt Nam sẽ có ưu thế trong đàm phán với các nước gia nhập TPP sau này. Ngoài ra, việc tham gia TPP đem lại một số lợi ích quan trọng cho Việt Nam, là cơ sở để Việt Nam sớm được Mỹ công nhận nền kinh tế thị trường, thuận lợi hơn trong tiếp cận thị trường xuất khẩu các nước thành viên, nhất là thị trường Mỹ, tạo lợi thế cạnh tranh trong việc tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, việc Việt Nam trở thành thành viên sáng lập của TPP sẽ là cơ hội hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thế cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm đảm bảo lợi ích của Việt Nam tại khu vực. Ngoài ra, TPP là cơ chế hợp tác, đối thoại hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam từng bước tiếp cận với các tiêu chí và tiêu chuẩn quốc tế. Có thể nói rằng, Hiệp định TPP sẽ là hiệp định đàm phán kinh tế thương mại có nội dung, tiêu chuẩn cao và phức tạp nhất mà Việt Nam từng tham gia./.

 
Đọc thêm...

越南与跨太平洋伙伴关系协议的谈判进程 (第一期)

00:25 |

 
美国在布什总统任期末年就开始提出成立《跨太平洋伙伴关系》(TPP)的倡议,但到2009年奥巴马总统上任时才得到强力的推动。参加TPP谈判的国家都把该协议视为长期的中心,为世界与地区经济的重新布局创造动力。但对美国而言,其实参加TPP并没有给美国带来太大的经济利益,同时也并不能改善美国双边贸易失衡的办法。实际上,越南、新西兰等国参加TPP都只给美国带来非常微小的经济利益。另外,奥巴马总统还要面对在纺织品、农产品等的国内保护主义对该协议的反对。由此可见,美国主动提出并积极推动TPP的谈判并不是为了美国近期的利益,而是为了美国长远的战略政治目的。
其一,美国有意构建亚太自由贸易区,其中美国将扮演领导位置。从此,美国可以设立有利于美国利益的规定。
其二,推动TPP的谈判也将帮助美国重新赢得传统盟友国家的新任,同时吸引其他亚太国家成为美国的盟友,给亚太地区的其他大国,尤其是中国施加压力。压带地区的力量布局正在发生改变,众多战略利益正在逐渐脱出美国的控制范围内,美国需要改变此状况。
其三,从长远利益而言,TPP帮助美国解决美国经济的内在问题。,帮助奥巴马总统实现把出口总额翻倍的目标,从而在5年内解决200万就业岗位的任务。美国把亚太地区视为对美国充满潜力的销售市场和重要的原材料提供方。
关于谈判进程,各国原确定每年进行4论谈判,并在2两年内努力结束谈判。但实际上,从2010年至今已经过19轮谈判。从谈判过程而言,参加谈判的各国不仅认为TPP具有重要的经济贸易利益,而且还具有长远的战略利益,所以都努力推动TPP的谈判进程,为世界和地区经济的重新布局创造动力。TPP是具有广泛范围的重要贸易协议,是太平洋两岸重要的增长模式。TPP反映了加强世界及地区连接的趋势,TPP的实施效率高于APEC,一些领域的承诺标准甚至还高于WTO的规定。
鉴于美国的建议,2008年越南表示愿意参加TPP谈判进程,同时也积极为参加TPP谈判进程做出准备。美国和其他参加TPP谈判的国家评价越南是个支持贸易自由化的国家,是亚太地区一个充满潜力的市场,同时通过越南可以加强与东盟的经济合作关系。20093月,参加TPP谈判的个国家正式同意越南以连接成员国资格参加谈判进程。201011月,在日本举行的APEC峰会期间,国家主席阮明哲宣布越南以完全成员国资格正是参加TPP谈判进程。201012月和20112月,越南以正是成员国资格参加在智利举办的第4轮和第5轮谈判。越南的劳动法修改、知识产权、环境等问题受到了各国的重大关注,要求越南尽早取得明显的改善。美国最积极向越南施加压力,要求越南在工会与劳动问题要去的实质性进展。如今,美国仍然是越南在谈判进程中最重要也是最困难的谈判对象。在美国的各反对越南的势力加强利用TPP的谈判问题向美国施加压力,要求美国政府对越南人权等问题表示更加强硬的态度。一些反对组织还呼吁美国国会因人权利有而不通过包括越南在内的TPP协定。
Đọc thêm...

Việt Nam và tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Kỳ I)

00:23 |


\

Sáng kiến thành lập Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) được Mỹ đưa ra từ cuối nhiệm kỳ Tổng thống Bush nhưng chỉ được đẩy mạnh từ cuối năm 2009 dưới thời Tổng thống Barack Obama. Các nước tham gia đàm phán TPP coi Hiệp định là trọng tâm trong dài hạn, tạo động lực tái cấu trúc nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên đối với Mỹ, nếu xét về mặt kinh tế, tham gia TPP không mang lại nhiều nhiều lợi ích cho Mỹ trước mắt và đây cũng không phải là biện pháp nhằm giải quyết vấn đề mất cân bằng thương mại song phương của Mỹ hiện nay. Trên thực tế, các nước tham gia TPP như New Zealand và Việt Nam chỉ mang lại lợi ích nhỏ cho các nhà xuất khẩu Mỹ. Ngoài ra, Chính quyền Obama sẽ gặp bất lợi do phải đối mặt với những phản đối trong nước trong việc bảo vệ các nhóm lợi ích (dệt may, nông sản…). Điều đó cho thấy, việc Mỹ chủ động đề xuất ý tưởng và thúc đẩy mạnh mẽ các nước đàm phán hình thành TPP không phải vì lợi ích trước mắt và nhằm mục đích chính trị chiến lược lâu dài.
Thứ nhất, Mỹ có ý đồ xây dựng khu vực mậu dịch tự do Châu Á – Thái Bình Dương trong đó Mỹ có vai trò dẫn dắt lãnh đạo. Từ đó Mỹ có thể áp đặt luật chơi của mình theo ý đồ riêng.
Thứ hai, việc thúc đẩy TPP giúp Mỹ lấy lại uy tín với các nước đồng minh truyền thống và lôi kéo các đồng minh khác trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tạo thế đối trọng trong quan hệ với các đối thủ lớn ở Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Tương quan lực lượng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang thay đổi nhanh chóng, nhiều nguồn lợi đã và đang có xu hướng tuột khỏi tầm kiểm soát của Mỹ.
Thứ ba, về lâu dài, TPP góp phần giải quyết khó khăn nội tại của nền kinh tế Mỹ, thực hiện mục tiêu của Chính quyền Tổng thống Obama tăng gấp đôi giá trị xuất khẩu để tạo ra 2 triệu việc làm trong vòng 5 năm và hướng đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là thị trường tiêu thụ hàng hóa đầy tiềm năng và cung cấp nguyên liệu quan trọng cho Mỹ.
Về lộ trình đàm phán, ban đầu các nước xác định tiến hành mỗi năm 4 vòng và có thể kết thúc đàm phán trong 2 năm. Tuy nhiên, từ năm 2010 tới nay, TPP đã trải qua 19 vòng đàm phán. Quá trình đàm phán TPP thời gian qua cho thấy các thành viên thực sự coi quan hệ đối tác trong khuôn khổ TPP không chỉ có tầm quan trọng kinh tế thương mại mà còn có ý nghĩa chiến lược dài hạn và do đó đều có quyết tâm chính trị thúc đẩy việc hình thành TPP tạo động lực mới cho phát triển và liên kết kinh tế khu vực trong thế kỷ 21 cũng như tái cấu trúc nền kinh tế khu vực và thế giới. TPP là một hiệp định thương mại quan trọng với phạm vi rất rộng, là mô hình tăng trưởng cho cả hai bờ Thái Bình Dương. TPP phản ánh xu hướng tăng cường liên kết khu vực và thế giới cũng như thu hút được sự quan tâm, coi trọng TPP trong chiến lược của các nước Châu Á – Thái Bình Dương giữa bối cảnh kinh tế thế giới thời gian qua gặp khó khăn. Hiệu lực thực thi của TPP lớn hơn mô hình APEC, một số lĩnh vực cam kết có tiêu chuẩn cao hơn quy định của WTO, phạm vi điều chỉnh rộng trên nhiều lĩnh vực.
Trên cơ sở đề nghị từ phía Mỹ, năm 2008 Việt Nam đã tỏ rõ thiện chí sẵn sàng tham gia TPP với điều kiện hưởng các quyền và ưu đãi và từng bước chuẩn bị tham gia vào tiến trình đàm phán. Mỹ và các nước tham gia TPP đánh giá Việt Nam là một trong những nước ủng hộ tự do hóa thương mại, là một thị trường tiềm năng và có thể thông qua Việt Nam tăng cường ảnh hưởng đối với ASEAN, cân bằng quan hệ với các nước và kiềm chế ảnh hưởng đang tăng lên của Trung Quốc đối với các nước trong khu vực. Tháng 3/2009, các nước tham gia đàm phán TPP đã chính thức đồng ý Việt Nam tham gia đàm phán TPP với tư cách là thành viên liên kết. Tháng 11/2010, tại Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố Việt Nam chính thức tham gia tiến trình đàm phán TPP với tư cách thành viên đầy đủ. Tháng 12/2010 và tháng 2/2011, Việt Nam tham dự phiên đàm phán thứ 4 tại New Zealand và thứ 5 tại Chile với vai trò thành viên chính thức. Các vấn đề sửa đổi luật lao động, sở hữu trí tuệ, môi trường… của Việt Nam được các nước rất quan tâm và tìm cách thúc đẩy Việt Nam sớm đạt được các bước chuyển biến tích cực. Mỹ là nước gây sức ép với Việt Nam mạnh nhất, yêu cầu Việt Nam phải có tiến triển thực chất trong lĩnh vực công đoàn và lao động. Đến nay, trong đàm phán, Mỹ vẫn là đối tác đàm phán quan trọng và khó khăn nhất của Việt Nam. Các thế lực chống Việt Nam tại Mỹ tăng cường sử dụng vấn đề TPP để ép chính quyền Mỹ cứng rắn hơn với ta về vấn đề nhân quyền. Một số tổ chức phản động gửi thư, vận động chính quyền Mỹ gây sức ép với ta về nhân quyền và vấn đề lao động trong TPP; vận động Quốc hội Mỹ không thông qua hiệp định TPP có Việt Nam tham gia vì lý do nhân quyền. (Còn nữa)


Đọc thêm...

越南人权网络组织和《人权奖》的手段

00:16 |

 
20131011日,越南人权网络织已举办“2013年人权奖”的公布会。三个被“推崇”的名字是陈黄维识、阮黄国雄和黎国军。对越南国家没有善感的一些媒体、网站和博客立即撰写多篇文章称赞这三个人物,并认为这三个人就是在越南为“人权”而奋斗的榜样,所以拘留这三个人是违犯“人权”的行为。给一个大多数人并不认识他是谁而颁发人权奖一事已经引起很多疑问。

第一:受到越南人权网络组织所颁发的“2013年人权奖”的人物是谁,他们是否真正是在越南为人权而奋斗的人?

陈黄维识是通过众多具有着非常危险性的强烈反抗人民政府行为而“出名”的人。鉴于改变越南政治体制以便担任高级职位的幻想,2005年底,陈黄维识成立起名为“Chan研究组”的组织,诱惑了其他四个人是黎升龙、黎氏秋秋、陈氏秋和顾氏芳,企图成立反对力量。他们提出推翻人民政府的计划和行动方式,通过“乐红宣言”的稿子进行反对党的领导的宣传,通过误导行为让人民失去对党的信心,诱惑知识分子参加“Chan研究组”,呼吁对越南政府有仇恨和反对思想的非政府组织来支持他们的活动。

陈黄维识还与黎公定出国到泰国与阮士平 见面,并商量通过“越南之路”计划,实行推翻越南人民政府的阴谋。陈黄维识的这一行为非常危险,对越南政治制度的存在造成严重的威胁,所以陈黄维识已被最高人民法院宣布因“进行推翻人民政府活动”的罪名而被判16年有期徒刑。

而黄国雄也是一个多次对越南人民政府进行对抗破坏活动的人物。阮黄国雄原来从事电脑维修工作,曾因勾结一些政治对抗分子进行违法上访,破坏公共治安的行为而被胡志明市公安局进行警告。阮黄国雄以前还曾被在国外的反动组织“越南劳动者保护委员会”的带头人陈玉成带到马来西亚,进行对抗破坏党与政府活动方式的训练。从2010128人至29日,阮黄国雄与杜世明幸、段微章等人在茶荣、同奈、胡志明市等地进行煽动游行示威,散播传单等活动,其内容包括煽动人民进行对抗破坏党与政府的活动, 煽动工人进行罢工示威,破坏工厂机械和财产等。因上述的犯罪行为,阮黄国雄被茶荣省人民法院宣告9年有期徒刑。

被颁奖的第三个人物是黎国军。他也是一名积极参与对抗、破坏越南党和政府的人物。除了各种政治破坏行为外,黎国军还曾经有逃税行为,并于2013102日被河内人民法院以“逃税”罪名判刑30个月有期徒刑。这些人物的行为都是破坏国家安全与社会治安、破坏社会稳定。这三个人都不像“越南人权网络”组织所宣布的为越南人权而奋斗的人物,所以他们被颁发所谓的“越南人权奖”真让人觉得可笑。

其二,越南人权网络组织是何组织?

可以肯定地说,这是在国外越南侨胞群体中的反动组织。该组织成立于199711月,由阮青庄、黎明元、吴文孝、阮玉琼、阮国、段越中等反动人物带头。越南人权网络组织为了扩张声势已经成立了一个网站,并与在美国的其他越南反动组织的广播电台联合进行关于越南民主、人权、宗教自由问题的歪曲宣传。同时越南人权网络组织也非常积极呼吁一些对越南有恶感的美国参议院通过“越南人权预案(HR3069)”,要求越南释放所有“良心囚犯”、“政治囚犯”。这样的反动组织根本没有资格对越南公民进行颁发所谓的“越南人权奖”。

其三:所谓的“人权奖”的真正意图?

可以肯定地说,鉴于越南人权网络组织的反动本质,该组织对陈黄维识、阮黄国雄、黎国军进行颁发所谓的“人权奖”只不过是为了激励这些人物以及其他反动人物继续激烈地对抗越南人民政府。这并不是第一次越南人权网络组织进行颁发所谓的“人权奖”。再看越南人权网络组织颁奖名单时,我们可以发现,几乎每年该组织都进行颁奖活动,而获奖对象都是对越南人民政府进行对抗活动的人物,例如:范红山、阮克全、施广度、阮文理、李氏工人等。所以,今年该组织向阮黄国雄、陈黄维识、黎国军、颁奖也并不让人感到意外。
可以说,所谓的“人权奖”只不过是越南人权网络组织进行对抗越南人民政府活动的一种手段。所以,这样的所谓“奖项”也并不具有任何价值,只会受到越南人民以及国际社会的反对罢了。
Đọc thêm...

Mạng lưới nhân quyền Việt Nam và chiêu bài “Giải thưởng nhân quyền”

00:11 |

 
 
Ngày 11/10/2013, tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Namđã tiến hành buổi lễ công bố “Giải thưởng nhân quyền 2013”. Ba cái tên được“vinh danh” là Trần Huỳnh Duy thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Lê Quốc Quân. Ngay lập tức, một số hãng truyền thông cũng như các trang web, blog thiếu thiện chí với Nhà nước Việt Nam đã viết nhiều bài ca tụng về ba nhân vật này và cho rằngđây là ba tấm gương hoạt động vì “nhân quyền” tại Việt Nam và việc giam giữ những người này là đàn áp và vi phạm “nhân quyền”. Việc trao giải thưởng nhân quyền cho những người mà nhân dân phần đông chẳng biết họ là ai đã đặt ra nhiều câu hỏi:

Thứ nhất: Những người được nhận “Giải thưởng nhân quyền năm 2013 của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam là ai và có đúng họ là những người hoạt động vì nhân quyền ở Việt Nam hay không?

Trần Huỳnh Duy Thức là người đã “nổi tiếng” vì những hoạt động chống chính quyền rất quyết liệt với tính chất cực kỳ nguy hiểm. Với ảo vọng thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam để được giữ những chức vụ cao nhất. Cuối năm 2005, Thức thành lập tổchức có tên gọi là “Nhóm nghiên cứu chấn”, lôi kéo 4 đối tuợng khác là Lê Thăng Long, Lê Thị Thu Thu, Trần Thị Thu và Cù Thị Phương nhằm tập hợp lực lượng chốngđối. Bọn chúng đề ra kế hoạch, phương thức hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân gồm soạn thảo “Tuyên ngôn Lạc Hồng” làm tài liệu tuyên truyền chống đối sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc gây mất niềm tin trong nhân dân, tập hợp lôi kéo trí thức tham gia “Nhóm nghiên cứu chấn”, kêu gọi sự ủng hộ của các tổ chức phi chính phủ có tư tưởng thù địch chống đối Việt Nam. Thức còn cùng Lê Công Định xuất cảnh sang Thái Lan gặp Nguyễn Sỹ Bình bàn bạc phương thức lật đổ chính quyền nhân dân qua kế hoạch có tên là “Con đường Việt Nam”. Những hành vi của Trần Huỳnh Duy Thức là cực kỳ nguy hiểm, đe dọa đến sự tồn tại của chế độ chính trị ở Việt Nam và với những hoạt động của mình, Thức đã bị Tòa án nhân dân Tối cao tuyên phạt 16 năm tù giam vì tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Còn nhân vật Nguyễn Hoàng Quốc Hùng cũng là nhân vật có nhiều hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam. Hùng làm nghề sửa chữa máy vi tính, đã từng bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản cảnh cáo về hành vi cấu kết với một số đối tượng chống đối chính trị, khiếu kiện cực đoan, gây rối trật tự công cộng. Hùng trướcđây còn được Trần Ngọc Thành, đối tượng cầm đầu tổ chức “Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam” – một tổ chức phản động trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đưa sang Malaysia đào tạo, huấn luyện về phương thức hoạt động chống pháĐảng, Nhà nước. Từ 28/1 đến 9/2/2010, Hùng cùng với Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, nhà nước,đấu tranh đòi dân chủ, kích động công nhân biểu tình, phá hoại máy móc, tài sản doanh nghiệp. Với những hành vi trên, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tuyên phạt 9 năm tù gian vì tội “Phá rối an ninh”.

Cái tên thứ 3 được nhận giải là Lê Quốc Quân. Đây cũng là một nhân vật khá “xung kích” trong các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngoài các hoạt động vì mục đích chính trị thì Quân còn có hành vi trốn thuế. Ngày 2/10/2013 vừa qua, Quân bị Tòa án nhân dân Tp Hà Nội tuyên phạt 30 tháng tù giam vì tội “Trốn thuế”. Như vậy, cả 3 nhân vật mà mạng lưới nhân quyền Việt Nam vinh danh đều là những đối tượng vi phạm pháp luật và đang phải chịu án tù. Hành vi của những người này là các hành vi xâm phạm ANQG và TTATXH, làm mất ổnđịnh chính trị xã hội. Họ không phải là những người hoạt động vì “nhân quyền”như lời tuyên bố của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam nên việc ba con người này được nhận cái được gọi là “Giải thưởng nhân quyền” thật nực cười.

Thứhai: Mạng lưới nhân quyền Việt Nam là tổ chức như thế nào?

Có thểkhẳng định ngay rằng đây là tổ chức phản động trong cộng đồng người Việt Nam ởnước ngoài. Tổ chức này thành lập tháng 11/1997 do một nhóm đối tượng phản động gồm Nguyễn Thanh Trang, Lê Minh Nguyên, Ngô Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Nguyễn Quốc Khải, Đoàn Việt Trung… cầm đầu. Quá trình hoạt động, Mạng lưới nhân quyền Việt Nam đã móc nối, gây dựng quan hệ với 25 nhóm, tổ chức phản động nhằm tạo nên sự liên minh thống nhất hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam. Mạng lưới nhân quyền Việt Nam là một trong những tổ chức phản động chuyên lợi dụng vấn đềdân chủ, nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Sau khi công bố thành lập, để khuyếch trương thanh thế, các đối tượng Mạng lưới nhân quyền Việt Nam thành lập một trang web và liên kết với đài phát thanh của các nhóm phản động người Việt lưu vong khác trên đất Mỹ tiến hành mở nhiều “chiến dịch” tán phát tài liệu phản động vu cáo, xuyên tạc chống phá Nhà nước ta về dân chủ nhân quyền”. Đồng thời Mạng lưới nhân quyền Việt Nam cũng rất tích cực vận động số dân biểu, nghị sỹ Mỹkhông có thiện chí với Việt Nam xin bảo trợ nhằm thông qua “Dự luật nhân quyền cho Việt Nam” (HR.3096); đòi Việt Nam phải trả tự do cho tất cả “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị” hoặc “tù nhân tôn giáo”, chấm dứt chế độ “quản chế tại gia” đối với những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền. Với bản chất của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam như vậy, họ không đủ tư cách nói về nhân quyền của Việt Nam, cũng không đủ điều kiện để trao giải thưởng về nhân quyền cho công dân Việt Nam.

Thứ ba: Mục đích, ý đồ của cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền” là gì?

Có thểkhẳng định rằng với bản chất phản động của mình, việc Mạng lưới nhân quyền trao giải thưởng cho các đối tượng Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân là nhằm khích lệ tinh thần để ba đối tượng này nói riêng và các đối tượng chống đối khác trong nước nói chung tiếp tục chống đối Nhà nước Việt Nam một cách quyết liệt. Đây không phải lần đầu tiên Mạng lưới nhân quyền Việt Nam trao cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng chống đối chình trị.Xem lại danh sách “nhận giải” của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” thấy rằng, hầu như năm nào tổ chức này cũng “trao giải” cho các đối tượng chống đối chính trị đã và đang có những hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam như Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Đan Quế, Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn VănĐài, Lê Thị Công Nhân… Thế nên năm nay việc “trao giải” cho Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân cũng không có gì khó hiểu.

Có thể nói, cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền” của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam thực chất cũng chỉ là một chiêu bài mà tổ chức này đã và đang sử dụngđể phục vụ cho các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam. Dương nhiên, những cái gọi là “giải thưởng” như thế này sẽ không có giá trị gì và bị đông đảo dưluận nhân dân trong nước cũng như quốc tế tẩy chay, lên án mà thôi./.

 
Đọc thêm...

在东海是否会出现“防空识别区”?

23:54 |

1123日,中国宣布在华东还设立“防空识别区”(ADIZ),其范围包括中国与日本有领土主权争议,目前在日本管辖范围内的钓鱼岛/Senkaku群岛。据中国所推出的规定,外国飞机在飞入防空识别区范围是要执行中国的命令,具体是在飞入该区域前要向中国提供飞行计划。中国的这种单方面行为受到各国的强烈反对,特别是美国、日本、韩国、台湾等。他们认为中国的该行为可以导致华东海地区的紧张局势进一步升级,对地区的和平、稳定造成严重的威胁。日本宣布对该防空识别区视而不见,并考虑扩大日本的防空识别区范围。美国也宣布否认中国的该区域,美国两家B52轰炸机已在钓鱼岛/Senkaku 上空飞行而并不向中国报告,同时美国还宣布在Senkak/钓鱼岛被进攻时将站在日本一方。
国际社会认为中国在华东海地区设立AIDZ的目的在于把没有正义的区域变成争议区域,从而一行使主权的行为来维持目前在日本管辖范围内的钓鱼岛/Senkaku群岛的主权宣称,同时通过该行为宣示中国强大的武装力量,挑衅日本,改变华东海地区的军事力量布局。另外,中国还希望通过此次行为试探其他国家,特别是美国的反应。

虽然受到国际社会的强烈反对,中国仍然并未作出分和减少紧张局势的友善动态,他们甚至还宣布将在黄海、东海等地设立类似的防空识别区。1123日,原中国海军专家委主任的尹卓少将在中国中央电视台发表称,在黄海。、东海以及其他有关中国的海域设立防空识别区是“必要的”。他表示,在华东海设立防空识别区是在其他海域设立该区域前的试探办法。尹卓还认为中国设立防空识别区的目的在于巡逻、跟踪、检查和使用各种办法实施法律。但是,如果对方的飞机飞入中国领空时不配合或拒绝雷达跟踪将被击落。

中国是否对自己的经济、军事力量国语自信,所以他们可以自由地向其他国家,包括美国强压规定。中国提出霸占东海80%的所谓“九段线”主权要求给东海地区的和平和稳定造成严重的威胁,所以受到了国际社会的强烈反对。但是,中国好像已习惯于国际社会的反对,所以仍然进行各种试图独占东海的行为。例如,在被国家社会强烈反对其推出的防空识别区的情况下,1126日,中国仍然调动辽宁航母以及沈阳和石家庄驱逐舰与烟台和潍坊护卫舰到东海。该舰队将在东海进行演习和训练活动,但具体计划并未被透露。据中国新浪网消息,此次活动的两点并不在于辽宁航母的出现,而在于首次中国舰队在辽宁航母带领下出现在东海,这体现了中国强大的远海作战能力,方潜艇进攻能力,防空能力以及空中进攻能力。

菲律宾已强烈反对中国调动辽宁航母到东海的行为,认为该行为将是紧张局势进一步升级,威胁东海地区的和平与稳定,严重违反东海各方行为宣言(DOC)以及国际法的规定。
可以说,在此行为上,中国并没有远大的战略目光。随着越来越傲慢、具有挑衅性的态度,中国正在把其他国家联合在一起,造成对付中国的联盟。就是中国的传统“盟友”的对中国产生提防、警觉态度。国际社会对中国的行为充满怀疑心态。在如今的背景下,中国很难找到一个真心的朋友。这对中国对外政策决策者以及中国人民都是一件非常悲哀的事情。
Đọc thêm...

Liệu có “Vùng nhận dạng phòng không” ở Biển Đông hay không?

20:20 |




Ngày 23/11, Trung Quốc tuyên bố thiết lập “Vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ) trên biển Hoa Đông, trong đó bao trùm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư hiện là tâm điểm tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Theo đó, các máy bay nước ngoài khi đi vào ADIZ phải chấp hành mệnh lệnh của Trung Quốc, cụ thể là phải trình kế hoạch bay trước khi vào khu vực này. Hành động đơn phương áp đặt của Trung Quốc một lần nữa dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ các nước, nhất là Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Australiavà Đài Loan. Họ cho rằng hành động của Trung Quốc khiến cho tình hình căng thẳng ở khu vực leo thang, có thể gây ra những tình huống nguy hiểm, đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực. Nhật Bản tuyên bố phớt lờ ADIZ của Trung Quốc và xem xét việc mở rộng ADIZ của Nhật Bản, còn Mỹ cho biết sẽ không công nhận ADIZ (hai máy bay B52 của Mỹ đã tiến hành bay trên vùng không phận của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư mà không cần khai báo), đồng thời Mỹ cam kết sẽ đứng về phía Nhật trong trường hợp Senkaku/Điếu Ngư bị tấn công.

Dưluận cho rằng ý đồ của Trung Quốc khi thiết lập ADIZ là nhằm biến khu vực không tranh chấp thành khu vực có tranh chấp để dễ bề lấn chiếm để khẳng định chủquyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư hiện đang do Nhật Bản quản lý, đồng thời qua đó phô trương sức mạnh, thách thức Nhật, muốn thay đổi cán cân quân sự ở Biển Hoa Đông. Ngoài ra, Trung Quốc cũng muốn qua đó thăm dò thái độ của các nước, đặc biệt là Mỹ. Có thể nói đây là “một phép thử” đối với chính quyền Tổng thống Obama.

Mặc dù bị phản đối mạnh mẽ, nhưng Trung Quốc vẫn không có động thái thiện chí nào nhằm trấn an những lo ngại của các nước mà còn cho biết họ có thể sẽ thiết lập “Vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ) tương tự trên các vùng biển khác như Hoàng Hải, BiểnĐông và các vùng biển liên quan khác. Phát biểu trên kênh truyền hình Trungương Trung Quốc (CCTV) ngày 23/11, Thiếu tướng Doãn Trác, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Cố vấn của Hải quân Trung Quốc khẳng định khả năng xác lập các ADIZ ở Hoàng Hải, Biển Đông và các vùng biển liên quan đến Trung Quốc là “tất yếu”. Theo ông này, việc xác định ADIZ trên Biển Hoa Đông được cho là biện pháp thăm dò trước khi thiết lập các ADIZ ở những vùng biển khác trong tương lai. Ông Trác cho rằng mục đích của Trung Quốc khi lập ADIZ là nhằm tuần tra, theo dõi, kiểm soát và sử dụng các biện pháp để thực thi pháp luật. Tuy nhiên, nếu các máy bay đối phương không phối hợp hoặc từ chối kiểm soát radar một khi đi vào vùng trời của Trung Quốc thì sẽ bị bắn hạ.

Phải chăng Trung Quốc quá tự tin về sức mạnh kinh tế, quân sự của mình nên họ luôn tựcho mình quyền áp đặt đối với các nước trên thế giới, kể cả Mỹ. Việc Trung Quốcđưa ra yêu sách “Đường lưỡi bò” chiếm 80% Biển Đông gây cản trở cho tự do hàng hải, đe dọa an ninh, hòa bình, ổn định trong khu vực cũng đã bị cộng đồng quốc tế phản đối kịch liệt. Nhưng dường như Trung Quốc đã quen với việc bị chỉ trích và phớt lờ dư luận vẫn kiên quyết tiến hành hàng loạt động thái nhằm thực hiện ýđộ độc chiếm Biển Đông đến cùng. Chẳng hạn trong bối cảnh bị các nước lên án, chỉ trích mạnh mẽ về ADIZ ở Biển Hoa Đông, ngày 26/11, Trung Quốc đã điều tàu sân bay Liêu Ninh cùng với 4 tàu khác gồm 2 tàu khu trục tên lửa Thẩm Dương và Thạch Gia Trang và 2 tàu hộ vệ tên lửa Yên Đài và Duy Phường đến Biển Đông. Đội tàu chiến này sẽ tham gia diễn tập và huấn luyện ở Biển Đông, tuy nhiên kếhoạch chưa được tiết lộ. Theo trang quân sự Sina, điểm nổi bật của chuyến đi lần này của đội tàu chiến Trung Quốc không phải là lần đầu tiên tàu Liêu Ninh tới Biển Đông mà là lần đầu tiên đội tàu do hàng không mẫu hạm Trung Quốc dẫnđầu ra mắt, thể hiện sức mạnh tác chiến xa bờ, năng lực tấn công chống tàu ngầm, tấn công trên không và năng lực phòng không mạnh mẽ.

Philippinesđã phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc điều tàu sân bay Liêu Ninh đến Biển Đông, cho rằng hành động nói trên của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng và đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực, vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như luật pháp quốc tế.

Có thể thấy rằng Trung Quốc đã không có tầm nhìn xa trông rộng. Với thái độ ngày càng trịch thượng, hung hăng, ngạo mạn, đầy khiêu khích, Trung Quốc đang đẩy các nước xích lại gần nhau hơn, tạo thành các liên minh để đối phó với Trung Quốc. Ngay cả, các nước được cho là “đồng minh” của Trung Quốc cũng luôn trong tình trạng đề phòng, cảnh giác trong quan hệ với Trung Quốc. Thế giới nhìn Trung Quốc với cái nhìn thiếu thiện cảm và Trung Quốc khó có thể tìm thấy một người bạn chân thành ủng hộ họtrong bối cảnh hiện nay. Điều đó thật đáng buồn đối với người dân Trung Quốc nói chung và đối với những nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc nói riêng.

 

Đọc thêm...

中国加大对马来西亚的影响力

18:09 |

 

马来西亚属于连接印度洋与太平洋的东海地区,控制经过马六甲海峡的世界上最重要的海上航线之一。这是连接波斯湾的石油出口国家与东亚地区中国、日本、韩国等石油进口大国最短的海上航线。目前,美国海军及ing常出现在该海域,而中国海军对该海域也表现出浓厚的兴趣。因此,马来西亚成为各大国争取影响力的重要对象。加大对马来西亚的影响力对中国的长远发展还具有至关重要的意义,这将是马来西亚不会倒向美国的怀抱,从此大大限制美国在东南亚地区的影响力。

是东盟组织的重要成员,马来西亚可以帮助中国推动与东盟的关系。2015年,马来西亚将成为东盟轮值主席国,所以马来西亚可以成为促进中国与东盟总体关系的重要推动者。有马来西亚的支持,中国将更加容易参与东盟的政治、对外等问题,特别是东盟+1机制,减少美国、欧洲、日本、印度等国在该地区的影响。

在经济方面,马来西亚拥有丰富的资源,橡胶、棕榈油、胡椒等资源的出口量都名列世界领先位置,另外马来西亚也还拥有很多吸引中国企业的矿产资源。与此同时,马来西亚是世界名列第18位的贸易大国,所以这将是中国的理想市场。值得注意的是,该国还拥有非常庞大的华人群体,华人占马来西亚总人口的24.6%,并控制马来西亚几乎所有的经济活动。马来西亚是东盟经济动力之一,所以增加两国的经济合作关系将帮助中国促进与东盟的经济关系。

因为马来西亚的重要性,中国政府全力增加对该国的影响力,具体体现为:

在政治外交方面,中国将两国的关系升级为全面战略伙伴关系。中国国家主席习近平强调:“中马关系走在中国同东盟国家关系前列。在新的历史时期,双方应该进一步提升战略合作水平,使中马关系在本地区继续发挥示范引领作用。”

在安全国防方面,中国国家主席习近平建议“发挥防务安全磋商机制作用,加强两军交流合作。深化执法合作,合力打击恐怖主义和跨国犯罪”。两国也加强高层的军事交流及军事合作活动。另外,两国在航行安全保护的合作活动也得到重视。

在经济方面,双方签署了中国 马来西亚经济贸易合作5年计划(2013 – 2017年),确定双边贸易金额新发展目标与路程。另外,中国也积极加大对马来西亚的投资、援助活动的力度。两国已签署了十多项经济合作协定。

在投资方面,到2013年,中国向马来西亚的非财政投资在10年内从3.47亿美元增加到6.3亿美元。与此同时,两国也承诺推动金融领域的合作。

在增加“软”影响力方面,在马来西亚的华人群体以控制马来西亚80%以上的经济活动,汉语被广泛使用,成为中国文化在马来西亚广泛发展的基础。目前中国与马来西亚大概有14000名留学生在两国学习。

总之,中国正在集中力量,对马来西亚进行全面的“吸引攻击”,进而通过马来西亚进一步干遇到东盟内部的问题,同时限制其他国家的影响力。中国可以通过经济手段在东海问题“中立”马来西亚,呼吁马来西亚通过双边谈判解决东海争议,从此给参与正义的其他国家施加压力。但是,中国的目的很难瞒过东盟的其他国家。所有国家都希望合作与发展,但一切都需要在尊重事实的基础上出发。如果破坏了这条原则,任何结果都很难长久地存在。
Đọc thêm...

Trung Quốc và sự gia tăng ảnh hưởng đối với Malaysia

18:08 |

 

 Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc đón người đồng nhiệm Malaysia sang thăm.
 
Malaysia nằm ở khu vực Biển Đông nối liền giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, kiểm soát tuyến hàng hải quan trọng thuộc bậc nhất thế giới qua eo biển Malacca. Đây là tuyến đường biển ngắn nhất gắn kết các nhà sản xuất nhiên liệu ở vùng Vịnh Pecxich với các nhà tiêu thụ lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Hiện Hải quân Mỹ thường xuyên hoạt động tại đây trong khi Hải quân Trung Quốc cũng đặc biệt quan tâm đến eo biển này bởi tầm quan trọng của nó đối với nguồn cung nhiên liệu cho khu vực. Do đó Malaysia cũng có tầm quan trọng khá lớn đối với các cường quốc trong việc tranh giành ảnh hưởng nhằm kiểm soát khu vực giao thông hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới đi qua đây. Việc gia tăng quan hệ với Malaysia còn có ý nghĩa sống còn với tương lai phát triển của Trung Quốc vì sẽ tránh cho nước này nghiêng về chiếc ô an ninh của Mỹ, từ đó hạn chế, đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á.

Là một quốc gia có vị thế quan trọng ở ASEAN, Malaysia có thể giúp Trung Quốc hội nhập tốt hơn với ASEAN. Năm 2015, Malaysia sẽ giữ vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, do đó Malaysia có thể giữ vai trò đội quân tiên phong trong việc thúc đẩy quan hệ tổng thể giữa Trung Quốc và ASEAN. Bên cạnh đó, Malaysia có thể giúp Trung Quốc giảm bớt sự nghi kị, gia tăng niềm tin của Trung Quốc đối với các quốc gia Đông Nam Á. Có được sự ủng hộ của Malaysia, Trung Quốc sẽ thuận lợi hơn trong việc gia tăng can dự vào các vấn đề chính trị, đối ngoại của ASEAN, nhất là cơ chế ASEAN+1, giảm bớt ảnh hưởng của Mỹ, phương Tây, Nhật Bản và Ấn Độ.

Về kinh tế, Malaysia có nhiều tài nguyên phong phú như cao su, dầu cọ, hồ tiêu với sản lượng xuất khẩu hàng đầu thế giới, ngoài ra còn có nhiều khoáng sản thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp Trung Quốc. Hơn nữa, Malaysia là quốc gia mậu dịch lớn thứ 18 trên thế giới nên đây sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hóa và đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư Trung Quốc. Đặc biệt, nước này còn có số lượng người Hoa lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 24.6% tổng số dân và kiểm soát hầu hết các hoạt động kinh tế tại Malaysia. Malaysia là một trong những đầu tàu kinh tế của ASEAN nên gia tăng quan hệ kinh tế giữa hai nước sẽ giúp cho Trung Quốc gia tăng quan hệ kinh tế tốt hơn đối với ASEAN, nhất là khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015.

Trước những lợi ích mà Malaysia có thể mang lại, Trung Quốc đã thúc đẩy ảnh hưởng chiến lược với nước này trên nhiều lĩnh vực:

Về chính trị ngoại giao, Trung Quốc đã nâng quan hệ hai nước lên Quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Ông Tập Cận Bình nhấn mạnh: “Quan hệ giữa Trung Quốc và Malaysia ở tuyến đầu của quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN. Trong thời kỳ lịch sử mới, hai bên cần thúc đẩy nâng cao hơn mức độ hợp tác chiến lược khiến cho quan hệ Trung Quốc-Malaysia tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt có tính hình mẫu đối với khu vực này.”

Về mặt an ninh quốc phòng, ông Tập Cận Bình kiến nghị “phát huy vai trò cơ chế trao đổi các công việc an ninh quốc gia, tăng cường giao lưu hợp tác quân sự. Làm sâu sắc hơn hợp tác chấp pháp, cùng hợp tác tấn công chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia”. Hai nước cũng tăng cường các cuộc trao đổi quân sự cấp cao, hoạt động hợp tác chung về quân sự. Mua bán trang thiết bị quân sự được triển khai tương đối mạnh mẽ, đồng thời các hoạt động nhằm đảm bảo an ninh hàng hải ở khu vực cũng được chú trọng.

Về kinh tế, hai bên đã ký kết Kế hoạch 5 năm Hợp tác Kinh tế Thương mại giữa Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ Malaysia (2013-2017), xác lập rõ lộ trình phát triển và mục tiêu mới về kim ngạch mậu dịch song phương. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực gia tăng quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư và viện trợ đối với Malaysia. Hai nước đã ký kết với nhau hơn 10 hiệp định hợp tác kinh tế.

Về đầu tư, tính đến đầu năm 2013, đầu tư phi tài chính của Trung Quốc tại Malaysia trong 10 năm trở lại đây tăng từ 347 triệu USD lên 630 triệu USD. Bên cạnh đó, hai bên cũng cam kết thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực tài chính.

Về gia tăng ảnh hưởng mềm, cộng đồng người Hoa ở Malaysia đã kiểm soát hơn 80% hoạt động kinh tế, tiếng Trung Quốc được sử dụng rộng rãi là cơ sở để văn hóa Trung Quốc phát triển ở Malaysia. Hiện có khoảng 14000 du học sinh của Trung Quốc và Malaysia đang học tập theo diện trao đổi và tự túc ở cả 2 nước.

Tóm lại, Trung Quốc đang tập trung sức mạnh để “tấn công” Malaysia một cách toàn diện nhằm thông qua Malaysia để can dự sâu hơn vào các vấn đề nội bộ của ASEAN, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các cường quốc khác. Trung Quốc có thể trung lập hóa Malaysia trong vấn đề Biển Đông bằng con đường ngoại giao kinh tế, lôi kéo Malaysia giải quyết tranh chấp theo hướng song phương tạo tiền lệ đàm phán với các nước trong tương lai, song những ý đồ mục đích đó của Trung Quốc khó có thể qua mắt được các quốc gia ASEAN khác. Tuy nhiên, mọi quốc gia đều mong muốn hợp tác phát triển song tất cả phải dựa trên nền tảng tôn trọng sự thật. Nếu phá vỡ nguyên tắc này thì không mục đích nào đạt được có thể tồn tại lâu dài./.

 
Đọc thêm...

阮富仲总书记访印结果显著

17:56 |

 
在从1119日至22日的访问印度期间,越南共产党总书记阮富仲与印度总理曼莫汉·辛格同意扩大两国在各领域的合作,其中强调防务安全合作是越 - 印战略伙伴关系的重要支柱。印度承诺将继续帮助越南现代化国防与安全力量;统一帮助越南训练500名潜艇水手,并将通过一项价值1000万美元的信用贷款向越南提供4艘军舰。印度视越南为印度“向东政策”的重要支柱。

关于东海问题,印度支持各方根据国际法律,其中包括联合国海洋法公约(UNCLOS1982, 通过和平方式解决争议;保证海上的自由和安全;遵守并落实东海各方行为宣言(DOC)并尽快建立东海行为准则(COC)。

值此之际,越南国家油气集团(Petro Vietnam) 与硬度国家油气公司(ONGC Videsh Limited - OVL)签署了关于加强在东海属于越南主权的海域的油气开发合作的备忘录。据该备忘录,双方将共同进行在越南、印度以及第三个国家的油气勘探活动。这是阮富仲总书记访问印度期间越南语印度签署的8项协议中最突出的意象协议。越南已向印度介绍了7个不属于越南与中国在东海有领土主权争议的油气勘探区块,包括174143, 1011-1 102106/10等区块。

OVL是印度国家油气集团(ONGC)在国外市场营业的附属公司。OVL1988年就成立在越南的代办处(当初名为Hydrocarbons India Private Limited)。从此至今,OVL已参加了在越南的油气勘探、开发活动,并从越南特别是在东海的一系列活动收到大笔利润。2006年,OVL已经获得越南127号和128号地块的勘探权,但是2009年,由于在127号地块没有发现hydrocacbon 所以OVL停止对该地块进行勘探。虽然OVL遇到一定的困难,但是他们还是决定继续对128号地块进行勘探。目前OVL正在持有越南海边6.1号地块的45%股份。

中国对越南与印度合作开采东海海域上油气的反应

 

201212月,中国反对“单方开采东海海域上能量”的各项活动,并呼吁印度尊重中国在该地块所称的“不可争辩的主权”,特别是针对属于越南海域主权的127128号地块。

虽然,跟上次不同,这次中国对越南和印度之间有关开采、勘探属于越南海域主权的油气协定反应非常巧妙和慎重。中国表示希望有关国家可以做更多为区域和平发展和稳定做出贡献的事情。与此同时,中国的一些媒体报刊却认为阮富仲总书记的访问一行就是寻找印度(与美国、日本、俄罗斯)的国际支持,旨在对付中国的压力。

阮富仲总书记访问印度以及两国签署各领域中的或做协定是越南正常的对外活动。中国反对越南 印度发展两国传统合作关系只会使他们在国际社会眼中原本就不太美好的形象再度恶化。是否中国已经意识到这个问题,所以这次他们有所改变?
Đọc thêm...

Kết quả nổi bật trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

18:31 |

 

Trong chuyến thăm Ấn Độ từ ngày 19-22/11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã nhất trí mở rộng hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó nhấn mạnh hợp tác quốc phòng - an ninh là trụ cột quan trọng trong quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Ấn Độ. Phía Ấn Độ cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc hiện đại hóa, đào tạo quốc phòng và lực lượng an ninh; đồng ý giúp Việt Nam huấn luyện 500 thủy thủ tàu ngầm và sẽ chuyển giao 4 tàu hải quân cho Việt Nam bằng một khoản tín dụng trị giá 100 triệu USD. Ấn Độ coi Việt Nam là trụ cột quan trọng trong chính sách “hướng Đông” của mình.

Liên quan vấn đề Biển Đông, Ấn Độ ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNLOS); bảo đảm an ninh, an toàn đường biển và tự do hàng hải; tuân thủ và thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC) và sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).  

Cũng nhân dịp này, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petro Vietnam) và Công ty Dầu khí Quốc gia Ấn Độ (onGC Videsh Limited - OVL) đã ký Biên bản ghi nhớ về việc tăng cường hợp tác khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Theo đó, hai bên sẽ cùng tổ chức các hoạt động thăm dò dầu khí ở Việt Nam và Ấn Độ cũng như ở một nước thứ ba. Đây được xem là thỏa thuận nổi bật nhất trong số 8 thỏa thuận mà Việt Nam và Ấn Độ đã ký trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Phía Việt Nam đã giới thiệu với OVL 07 khu vực thăm dò dầu khí ngoài khơi gồm các lô 17, 41,43, 10&11-1 và 102&106/10 không thuộc khu vực tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc mà không cần thông qua đấu thầu.

OVL là Công ty con hoạt động ở thị trường nước ngoài thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc doanh (ONGC) của Ấn Độ. OVL đã thành lập Văn phòng đại diện ở Việt Nam từ năm 1988 (lúc đó lấy tên là Hydrocarbons India Private Limited). Từ đó đến nay, OVL đã tham gia vào các hoạt động thăm dò, khai thác các lô dầu khí ở Việt Nam và đạt được những khoản lợi nhuận lớn từ các hoạt động ở Việt Nam nói chung và Biển Đông nói riêng. Năm 2006, OVL đã giành được quyền thăm dò lô 127 và lô 128 của Việt Nam, nhưng năm 2009, do không phát hiện thấy hydrocarbon ở lô 127 nên OVL đã dừng thăm dò lô này. Mặc dù gặp những khó khăn nhất định nhưng OVL vẫn quyết định sẽ tiếp tục thăm dò lô 128. Hiện OVL đang sở hữu 45% cổ phần trong lô 6.1 ngoài khơi bờ biển Việt Nam.

Phản ứng của Trung Quốc trước việc Ấn Độ và Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông

Tháng 12/2012, Trung Quốc phản đối các hoạt động “khai thác năng lượng đơn phương ở Biển Đông” và kêu gọi Ấn Độ tôn trọng cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc ở khu vực này, đặc biệt là nhằm vào lô 127 và 128 nằm trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên, khác với những lần trước, lần này Trung Quốc đã phản ứng khéo léo và thận trọng đối với các hiệp định giữa Việt Nam và Ấn Độ về thăm dò, khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Trung Quốc bày tỏ hy vọng các nước liên quan có thể làm nhiều việc hơn nữa có lợi cho phát triển hòa bình và ổn định trong khu vực. Trong khi đó, một số tờ báo của Trung Quốc trích dẫn bình luận cho rằng chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhằm tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế từ Ấn Độ (bên cạnh Mỹ, Nhật Bản, Nga) để đối phó với sức ép từ Trung Quốc.

Chuyến thăm Ấn Độ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng như việc hai nước ký kết các thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực là hoạt động đối ngoại bình thường của Việt Nam, không có gì phải bàn cãi. Việc Trung Quốc phản đối sự hợp tác phát triển quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai nước Việt - Ấn chỉ khiến hình ảnh của họ vốn đã không mấy đẹp đẽ lại càng xấu đi trong con mắt của cộng đồng quốc tế. Phải chăng Trung Quốc đã nhận ra điều đó nên lần này họ đã có sự thay đổi?.

 
Đọc thêm...

Hot (焦点)