Home » Archives for tháng 12 2017
严惩以爱国名义破坏革新事业的坏分子
18:09 |
近期,各敌对势力和机会主义分子继续采用各种恶毒和危险的手段试图破坏越南革命。其中,以爱国名义破坏我国的革新事业是他们常用的手段之一。
帝国主义自始至终、从未改变的目标是消灭全世界范围内的社会主义国家。当然,越南也不例外,他们甚至妄想转化越南,让我国走上他们布设的路线——西方模式。因此,他们奋力攻击,绞尽脑汁破坏我党和国家在文化社会、国防安全及外交各方面的主张和政策。实践证明,他们不择手段,哪怕是以民族神圣价值的名义去破坏我国人民革新、建设和保卫祖国的事业也在所不惜。
越南人民的爱国之心是具有传统性的无价之宝。它融汇着越南民族精神、意志、风骨和本色,且在当今已成为革命英雄主义的象征,是光明和高尚的集中体现。它跟野心家破坏祖国的反侧仇恨之心和阴谋诡计完全相反。越南民族的历史是浸润了不知多少倍受尊崇楷模爱国之心的历史,但也有不光彩的、已被控诉并落下惨败下场的印迹,如:黎昭统、吴庭艳等。这是那些以爱国之名图谋不轨、反民害国之流的前车之鉴。
如今,各敌对势力正不遗余力地使用各种恶毒、危险的手段,其中包括冒用爱国名义破坏越共,破坏我国人民的革新事业。他们所要破坏的重心仍是马列主义、胡志明思想道德风格、党的纲领、路线、观点,国家政策及法律等。特别是在我国发生重大政治事件或国内外形势发生复杂变化之时,他们又打出这一旗号来破坏。
还记得2014年5月外国在越南专属经济区和大陆架非法架设海洋石油981钻井平台,引起国内外舆论一片反对浪潮。当时,大多数越南人民明确阐述了爱国态度和团结精神,同我党和国家一道努力,坚决、坚持斗争,要求其必须将钻井平台撤离越南领海。各敌对势力和“民主活动家”则利用这一事件,视之为攻击、破坏、污蔑我党、国家和军队的良机。他们故意添乱,妄图将海上紧张局势“变为”陆地上的难题。他们煽动“爱国之心”,以“保卫海岛主权”的口号呼吁游行示威来聚众闹事,破坏公共财产,导致经济受损、社会安全秩序失常,以此来降低党和国家的威信和领导地位。更为露骨的是,一些坏分子还利用该机会高举“政治多元化、多党制”、“还我自由”的口号,为一些已被依法关押和处置的犯罪分子提出诉求。显然,他们嘴里喊着“爱国”、“为海岛主权”,但其行为却完全背道而驰。他们的所作所为已经暴露出其假借“爱国”之名来攫取政治利益和破坏祖国的真相。
为实现他们的图谋,一些所谓的“爱国者”还与境外敌对势力,尤其是越新反动组织紧密勾结来破坏祖国。哪里有困难、几时国家有值得注意的事件,越新组织和各“民主家”就混到那去“讼状”、煽动,用尽各种办法引起国内外舆论的注意。面对可以利用的事件,他们就想方设法集合人员、拿出各种手段对付党和各级政府。他们甚至组织人员进行挑衅、凌辱、谩骂、激怒执法力量,然后,呼天抢地、撒泼耍赖,获取影像后进行散发,诬告政府镇压“爱国人士”。待真相大白后,他们转而用恬不知耻的谎言诬陷政府,称借助“民主社会”组织激烈斗争后才取得这一结果;政府因 “舆论压力”而不得不介入!他们大声疾呼“要继续斗争”,同时,提出各种论调来散布对我党和国家怀疑的种子。
不仅如此,这些破坏国家的人还在其他一些事件中露脸,谁都能轻易发现各个“小道”网页的“关心”。那是一些贴着“冤民”标签的行为,受国外若干反动组织的资金支持和指导。他们常混同一些确实有冤情的人以“喊冤”为名出现在路边、地方政府门前。更为张狂的是,他们还藐视法律,发起长期非法诉讼以扰乱政治安全和公共秩序,制造交通堵塞和妨碍公务人员执法。值得一提的是,每次聚集,他们打出与他们冒用名义不相关的口号,只集中在诬告党和政府、为一些已被关押的违法者讨还自由上,或者祝贺一个“著名”反动组织——“8406集团”的“生日”。在这些活动上,敌对势力组织拍照、摄像放到网上,然后同RFA、BBC、VOA等网站配合呼吁造势,抹黑越南国家形象。
最近,各敌对势力和政治机会主义分子尚使出各种极为狡猾、恶毒的伎俩大肆破坏2016-2021任期第十四届国会及各级人民议会代表换届选举。除了鼓吹“自由竞选”提高那些“独立候选人”的“价值、人格”之外,他们集中力量污蔑、抹黑、降低国会代表候选人的威信,呼吁“抵制选举”,煽动选民不参与投票。他们发动、拉拢、引诱、收买一些人在若干地方聚众闹事,破坏选举组织工作。
部分人自诩为“先进”、“爱国”,在网上鼓吹煽动竞选,建立“参选2016国会代表运动”脸书账号;在多个博客、脸书登载“贴金”文章,故意包装那些独立候选人。一些境外电台、报纸还高调声称:“越南的选举名不正言不顺,只是共产党的扩大会议而已”,其破坏选举之意昭然若揭。他们谎称选举“欠缺透明度”或是一些独立候选人被“刁难”,被“区别对待”,甚至声称“有一场排斥、批斗独立候选人的战役。”显而易见,他们配合破坏的伎俩很明确且危险。但结局如何?他们完败。选举已圆满成功,保证依法、民主、公平、透明。
这一结果正是“一些利用爱国之心来破坏国家的图谋必败”这句话最具说服力的客观凭证!那些故意利用爱国之心试图破坏国家革新事业的坏分子必将被人民识破,被法律严惩。(完)
Nghiêm trị những kẻ mạo danh yêu nước để phá hoại công cuộc đổi mới
18:05 |
Thời gian qua, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội
tiếp tục dùng mọi thủ đoạn thâm độc và nguy hiểm để chống phá cách mạng Việt
Nam. Trong đó, núp danh nghĩa yêu nước để phá hoại công cuộc đổi mới đất nước
là một thủ đoạn họ thường dùng.
Mục tiêu xuyên suốt, không bao giờ thay đổi của chủ
nghĩa đế quốc là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới.
Đương nhiên, Việt Nam không phải là ngoại lệ; hơn thế, họ muốn chuyển hóa, đưa
nước ta theo con đường họ sắp đặt - mô hình phương Tây. Bởi vậy, họ ra sức công
kích, tìm mọi cách phá hoại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực tiễn
cho thấy, họ không từ một thủ đoạn nào, kể cả việc nhân danh các giá trị thiêng
liêng của dân tộc để chống phá công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta.
Lòng yêu nước là một trong những giá trị cao đẹp,
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Đó còn là biểu tượng rất đỗi tự hào đối với
mỗi người con đất Việt, được xây đắp, hun đúc và thử thách suốt chiều dài lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã phải trả giá bằng cả máu thịt của biết
bao thế hệ người Việt Nam mới có được. Lòng yêu nước là nguồn sức mạnh vô địch,
sức mạnh nội sinh, trước hết được biểu hiện ở thái độ, tinh thần trách nhiệm của
người dân đối với Tổ quốc, nhất là trong những thời khắc ngặt nghèo, có thể dẫn
đến sự còn - mất của đất nước. Nó còn được thể hiện ở sự cố kết cộng đồng hướng
tới mục tiêu chung: bảo vệ vững chắc Tổ quốc và tương lai tươi sáng của đất nước.
Chính lòng yêu nước đã gắn kết “triệu người như một”, bảo đảm cho dân tộc Việt
Nam trường tồn, vượt qua mọi thách thức, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Lòng
yêu nước của nhân dân Việt Nam, vì thế là tài sản vô giá, mang tính truyền thống,
luôn hòa quyện với tinh thần, ý chí, cốt cách, bản sắc của dân tộc và ngày nay
trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, luôn trong sáng, cao thượng.
Nó hoàn toàn trái ngược với sự phản trắc, lòng thù hận và mưu đồ đen tối của những
kẻ rắp tâm chống phá đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử thấm đẫm
lòng yêu nước với biết bao tấm gương được tôn vinh; nhưng bên cạnh đó cũng còn
hiện hữu những vết đen như: Lê Chiêu Thống, Ngô Đình Diệm,… đã bị lên án và nhận
kết cục thảm bại. Đó là bài học cho những kẻ danh xưng lòng yêu nước để thực hiện
mưu đồ xấu xa: phản dân, hại nước.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để sử dụng mọi
thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm, trong đó có mạo danh lòng yêu nước để chống phá Đảng
Cộng sản Việt Nam, phá hoại công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Trọng tâm chống
phá của họ vẫn là chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước,
v.v. Đặc biệt, vào các thời điểm đất nước có sự kiện chính trị trọng đại, hoặc
khi tình hình quốc tế, trong nước có những diễn biến phức tạp, họ lại sử dụng
chiêu bài đó để chống phá. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” và tự xưng
là “người có trách nhiệm” với dân, với nước, họ gửi các bản “kiến nghị”, “tuyên
bố”,… để truyền bá quan điểm sai trái, thù địch; triệt để sử dụng các phương tiện
thông tin - truyền thông, nhất là các trang mạng xã hội để kêu gọi, tập hợp lực
lượng, kích động gây rối, hòng tạo ra “điểm nóng” gây tiếng vang, phục vụ cho
mưu đồ chống phá Đảng và Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Còn nhớ, tháng 5-2014, nước ngoài hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam, gây làn sóng phản đối khắp trong nước và dư luận quốc tế. Trong khi những
người Việt Nam yêu nước thể hiện rõ thái độ và tinh thần đoàn kết, cùng Đảng và
Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh, buộc họ phải rút giàn khoan ra khỏi
vùng biển Việt Nam thì các thế lực thù địch, các nhà “dân chủ” lại lợi dụng sự
kiện đó và coi đây là cơ hội để công kích, chống phá, bịa chuyện vu khống Đảng,
Nhà nước và Quân đội ta. Họ cố tình làm cho tình hình thêm phức tạp; rắp tâm
“biến” những căng thẳng trên biển thành những khó khăn trên đất liền. Họ kích động
“lòng yêu nước”, kêu gọi biểu tình với khẩu hiệu: “bảo vệ chủ quyền biển, đảo”
để tụ tập gây rối, đập phá tài sản công, làm tổn hại về kinh tế, làm mất trật tự,
an toàn xã hội, nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trắng
trợn hơn, nhân cơ hội này, một số kẻ còn giương khẩu hiệu đòi “đa nguyên, đa đảng”,
đòi “trả tự do” cho những kẻ phạm tội đã bị bắt giữ, xử lý theo pháp luật, v.v.
Rõ ràng, miệng hô hào “yêu nước”, “vì chủ quyền biển đảo”, nhưng hành động của
họ thì hoàn toàn ngược lại. Việc làm của họ đã lộ rõ chân tướng những kẻ đội lốt
“yêu nước” để trục lợi chính trị và phá hoại đất nước. Đúng như Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định: để bảo vệ chủ quyền, không phải kích động thế
này thế khác là có được chủ quyền. Không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng
hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?
Chưa làm gì cả, chỉ có nói thôi, kích động các phần tử để làm rối tình hình.
Để thực hiện mưu đồ, những kẻ danh xưng “yêu nước” còn
cấu kết chặt chẽ với các lực lượng thù địch ở ngoài nước, nhất là tổ chức phản
động Việt Tân để chống phá đất nước. Cứ ở đâu đang gặp khó khăn, khi nào đất nước
có sự kiện đáng chú ý, thì ở đó, lúc đó Việt Tân và các nhà “dân chủ” mò đến để
“thầy dùi”, kích động, bằng mọi cách gây tiếng vang trước dư luận quốc tế và
trong nước. Sự kiện gì có thể lợi dụng, là họ tìm cách tập hợp lực lượng, đưa
ra đủ thứ yêu sách đối với Đảng, chính quyền các cấp, v.v. Sự cố hải sản chết bất
thường ở bốn tỉnh miền Trung tháng 4-2016, là điển hình về việc lợi dụng lòng
yêu nước và sự hèn hạ, tráo trở của họ trong chống phá đất nước. Khi phát hiện
sự cố xảy ra ở Hà Tĩnh và các tỉnh miền Trung, lập tức họ liên tiếp tung tin,
bài, ảnh trên các trang web, blog, mạng xã hội nhằm tạo cho mình “bộ mặt” có
trách nhiệm với đất nước. Họ giương các khẩu hiệu mị dân, như: “vì môi trường”,
“vì ngư dân”,… để lôi kéo người dân tụ tập, hò hét, chụp ảnh đưa lên mạng gây sức
ép. Thậm chí, họ tổ chức lực lượng gây hấn, lăng nhục, chửi bới,… nhằm khiêu
khích lực lượng chấp pháp và tìm mọi cớ lu loa, cào mặt ăn vạ kiểu “chí phèo” để
lấy hình ảnh phát tán vu cáo chính quyền đàn áp người “yêu nước”. Đồng thời, họ
đòi hỏi Chính phủ phải xác định ngay nguyên nhân cá chết, mặc dù biết rằng đây
là điều không thể. Bởi lẽ, để kết luận nguyên nhân cá chết một cách chính xác,
khách quan,… Chính phủ phải hết sức thận trọng, phải chỉ đạo các cơ quan chức
năng khảo sát, nghiên cứu, đưa ra được hệ thống chứng cứ khoa học, rõ ràng và
phải tổ chức phản biện độc lập. Trên cơ sở kết quả thu được, tổ chức đấu tranh
buộc phía liên quan phải công khai thừa nhận trách nhiệm và cam kết khắc phục hậu
quả. Thế nhưng, họ phớt lờ điều đó; thậm chí dựng đứng nhiều câu chuyện xuyên tạc,
bịa đặt, v.v. Khi mọi chuyện đã rõ ràng, họ quay sang vu khống chính quyền bằng
sự dối trá hết sức trơ trẽn. Rằng: nhờ các tổ chức “xã hội dân chủ” đấu tranh mạnh
mẽ mới đưa lại kết quả này; rằng: do phải “chống đỡ áp lực của dư luận” buộc
Chính phủ phải vào cuộc! Họ lớn tiếng hô hào “phải đấu tranh tiếp”; đồng thời,
đưa ra nhiều luận điệu nhằm gieo rắc nghi ngờ đối với Đảng và Nhà nước ta, v.v.
Trước những ảnh hưởng nghiêm trọng của sự cố, điều mà nhân dân miền Trung mong
muốn là sự đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ của cả nước, để sớm ổn định tình hình,
tìm đúng nguyên nhân, giải quyết thỏa đáng những vấn đề đặt ra. Nhưng không! Họ
không làm thế! Bởi, họ đâu có vì môi trường, vì cuộc sống của ngư dân? Mục tiêu
của họ là chống phá Đảng, đất nước, phá hoại sự ổn định xã hội để cản trở công
cuộc đổi mới của nhân dân ta! Tim đen của họ là từ sự cố môi trường chuyển
thành cuộc “cách mạng cá”. Song dã tâm cùng việc làm bỉ ổi của họ đã hoàn toàn
thất bại!
Không chỉ có vậy. Bộ mặt của những kẻ chống phá đất nước
còn được phơi bày ở một số sự kiện khác, ai cũng dễ dàng nhận thấy qua sự “quan
tâm” của các trang mạng “lá cải”. Đó là hoạt động của những người mang nhãn hiệu
“dân oan” được tài trợ về tiền bạc, sự chỉ đạo của một số tổ chức phản động nước
ngoài. Họ thường trà trộn với những người có oan ức thật để xuất hiện trên đường
phố, trước trụ sở chính quyền, với danh nghĩa “kêu oan”. Liều lĩnh hơn, họ còn
coi thường pháp luật, tổ chức khiếu kiện kéo dài nhằm làm mất an ninh chính trị,
trật tự công cộng, gây tắc nghẽn giao thông và chống người thi hành công vụ. Điều
đáng nói là, mỗi khi tụ tập, họ giương những khẩu hiệu không liên quan đến vấn
đề họ nhân danh, mà chỉ tập trung vu cáo Đảng, chính quyền, đòi thả tự do cho một
số kẻ vi phạm pháp luật đang bị phạt án tù, hoặc chúc mừng “sinh nhật” một tổ
chức chống đối “nổi tiếng” là “khối 8406”. Các hoạt động đó được họ chụp ảnh,
quay phim đưa lên mạng, rồi được các trang, như: RFA, BBC, VOA,… phối hợp tung
hô, để gây thanh thế và bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam, v.v.
Gần đây nhất, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội
chính trị còn chống phá quyết liệt Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020, với các chiêu trò hết sức tinh vi,
thâm độc. Có thể thấy, thủ đoạn chống phá của họ không có gì mới mà hoàn toàn
cũ rích, là: Đảng và Nhà nước vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, “thiếu minh bạch”,
v.v. Song, cũng có những thay đổi về cách thức tiến hành, đặc biệt là sự cấu kết
giữa lực lượng trong nước và ngoài nước và việc lợi dụng các phương tiện truyền
thông. Cùng với kêu gọi, cổ vũ cho xu hướng “ứng cử tự do”, đề cao “giá trị,
nhân cách” những người “tự ứng cử”, họ tập trung bôi nhọ, hạ thấp uy tín ứng cử
viên đại biểu Quốc hội, hô hào “tẩy chay bầu cử”, ráo riết kêu gọi cử tri không
đi bầu. Họ tổ chức vận động, lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc một số người tụ tập gây
rối, chống phá công tác tổ chức bầu cử tại một số địa phương, v.v. Trên một số diễn
đàn, mạng xã hội, họ công khai bài xích Cuộc bầu cử, xuyên tạc, nói xấu về ủy
ban bầu cử các cấp và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; họ rêu rao: “dân
chúng sẽ không đi bầu”; hoặc “Cuộc bầu cử ở Việt Nam lần này sẽ nhận quả đắng”.
Một số cá nhân tự cho là “cấp tiến”, “yêu nước” hô hào vận động tranh cử trên mạng,
lập facebook: “vận động ứng cử đại biểu Quốc hội 2016”; nhiều blog, facebook viết
bài “đánh bóng”, lăng xê những người tự ứng cử, v.v. Một số đài, báo nước ngoài
lớn tiếng vào hùa: “Cuộc bầu cử ở Việt Nam là không chính danh, chỉ là hội nghị
Đảng Cộng sản mở rộng” và tỏ rõ ý định phá hoại Cuộc bầu cử. Họ bịa đặt về chuyện
bầu cử “thiếu minh bạch” hay một số người tự ứng cử bị “gây khó dễ”, bị “phân
biệt đối xử”; thậm chí cho rằng “có một chiến dịch “tẩy chay”, “đấu tố” những
người tự ứng cử”, v.v. Rõ ràng, sự phối hợp chống phá của bọn họ rất bài bản và
nguy hiểm. Nhưng kết cục thì sao? Họ đã hoàn toàn thất bại. Cuộc bầu cử đã
thành công tốt đẹp, đảm bảo đúng pháp luật, dân chủ, công bằng, minh bạch.
Kết quả đó là bằng chứng khách quan và thuyết phục nhất
khẳng định: những mưu đồ lợi dụng lòng yêu nước để phá hoại đất nước tất sẽ thất
bại! Những kẻ cố tình lợi dụng lòng yêu nước để chống phá công cuộc đổi mới đất
nước nhất định bị nhân dân vạch mặt và bị pháp luật nghiêm trị.
回顾2017年越南经济
18:00 |
越通社——2017年越南经济多见起色,但未能肯定,2018年此趋势继续持续,因为挑战仍然存在。
经济复苏与增速之年
2017年,越南经济打下许多烙印。除了高达48亿美元的西贡啤酒工厂(Sabeco)并购项目之外,越南经济增长率突然突破6.81%大门成为令全世界羡慕的现象。协力管理咨询有限公司高级经理达斯汀·多尔蒂乐观地认为:“以我来看,2018年越南经济将保持增速或实现更快的增长率。”
不能否认国内企业所付出的不懈努力,然而,经济专家认为,今年越南经济大幅增长主要归功于农业的复苏及外资企业的活跃。
据此,农林水产业增长率为2.9%,高于2016年的1.36%水平。原因在于像2016年不一样,今年国家不遭受环境问题带来的巨大负面影响,加上今年天气较为顺利。2017年越南吸引外资共358.8亿美元,同比增长42.3%,因此越南成为亚洲地区在招商因此方面上的“现象”。其证明,在外商的眼目中,总人口9200万多人的这个国家投资环境极具吸引力,其消费力及劳动力都隆大。
2017年,全国新成立企业及恢复生产企业数量共15.3万家。其中,新成立企业数量达近12.7万家,创历史新高。
世行公布的《2018年营商环境报告》显示,越南营商环境在全球190个国家和地区中排名第68,较2017年上升14位。其表明,虽然为了赶上东盟六国,我们要做的工作仍然繁多,但是政府为改善并创造出平等、透明营商环境所付出的努力终于带来积极结果。
进入2018年,由于外资涌入越南,加上世界商品市场复苏,国家经济有望保持猛增势头。与此同时,行内专家希望,一些主要政策、尤其是特别经济区模式及国有企业股份制改革进程将为国家经济增长注入动力。VCBS证券公司乐观地认为:“GDP将保持在6.5-6.7%。政府有余地利用各个政策来合理地助推实现增长目标。”
挑战依然严峻
虽然2018年经济猛增的可行性较高,但挑战依然严峻,或将威胁经济未来增长趋势是不可否认的。具体挑战是银行的坏帐,房产市场增长缓慢,发达经济体加强实行贸易保护政策,尤其是2018年起把税率降至0%的进程将威胁到从事核心领域的部分国内企业的生死存亡。
国家财政监督委员会提出更为实质性的评估时认为,银行坏帐仍然处于较高水平,银行坏涨率高达9.5%。2017年,虽然银行体系已经努力计提坏账拨备,加快抵押资产扣押与清理进度,然而坏帐处理进度仍然缓慢。国家财政监督委员会认为:“其原因出自于以市场价格的坏帐出售工作及银行结构调整进程中所存在的不足之处,以0越盾的价格收购商业银行股权的进程缓慢。”
坏帐问题仍继续成为威胁维持或下调利率以助推增长过程的因素。若房市增长势头更为缓慢或遭受由2018年美联储加息带来的负面影响,上述压力甚至或将加剧。
与此同时,不能否认的是国内企业的实力仍然有限,其多样性不高。经济专家武智成博士认为:“经济的增长势头仍然依赖于加工制造、房地产、服务等部分产业。明年,上述产业或将继续发展,但像2017年一样实现蓬勃发展和取得突破性进展的可行性不高。”
在2018年即将到来之际,在按照《东盟商品贸易协定》实施路线图,从汽车、摩托车、零配件、电子元件等重要商品到水果、甘蔗等农产品的进口税率都要下调至0-5%的背景下,国内企业为面对失去市场份额的风险而感到担忧。当然,他们的担忧还出自于工业4.0热潮带来的挑战。因为,在工业4.0时代中,从事信息技术、自动化等高知识含量产业的企业之间的竞争很激烈。而国内企业仍然对其持有旁观的态度。
国家财政监督委员会代主席张文福认为:“越南应抓住由工业4.0的技术基础带来的机会,旨在避免被甩在后面。”
Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2018
18:00 |
Bức tranh tăng trưởng năm 2017 có nhiều gam màu sáng
nhưng chưa thể khẳng định điều đó sẽ tiếp tục thể hiện trong năm 2018 khi các
thách thức lớn vẫn tồn tại.
Năm của phục hồi và tăng tốc
2017 là năm ghi nhận nhiều dấu ấn về phương diện kinh
tế của Việt Nam. Bên cạnh thương vụ M&A kỷ lục 4,8 tỷ USD tại Tổng công ty
cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) thì việc nền kinh tế bất
ngờ tăng 6,81% - mức tăng cao nhất kể từ 2011 - đã trở thành một “hiện tượng”
mà thế giới ngưỡng mộ. “Tôi nghĩ, năm 2018 sẽ tăng trưởng tương tự hay tốt hơn.
Mức tăng này vẫn chưa phải là đỉnh điểm”, ông Dustin Daugherty, Giám đốc cấp
cao của hãng tư vấn Dezan Shira & Associates đánh giá lạc quan.
Không thể phủ nhận những nỗ lực tột bậc của các doanh
nghiệp (DN) nội, nhưng theo nhận định chung của giới chuyên gia kinh tế, đóng
góp lớn vào tăng trưởng mạnh của thành tích tăng trưởng năm nay là sự phục hồi
của nền nông nghiệp và sự năng động của khối DN đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo đó, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản ghi nhận mức
tăng 2,9%, cao hơn mức tăng 1,36% của năm 2016 do điều kiện thời tiết thuận lợi
và không chịu các biến cố lớn về môi trường như năm 2016. Với việc thu hút được
35,88 tỷ USD từ các nhà đầu tư ngoại (tăng 42,3%), Việt Nam đã trở thành một
“hiện tượng” của cả khu vực châu Á, đồng thời chứng minh môi trường đầu tư tại
quốc gia hơn 92 triệu dân này đang rất hấp dẫn, cả về tiềm năng tiêu thụ và quy
mô lao động, trong mắt các nhà đầu tư toàn cầu.
Năm 2017 cũng là năm mà cả nước ghi nhận hơn 153 nghìn
DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Trong đó, số lượng DN mới đã lập kỷ
lục mới khi lên tới gần 127 nghìn DN.
Trong Bảng xếp hạng môi trường kinh doanh Doing
Business 2018 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã cải thiện đáng kể vị trí khi
tăng 14 bậc so với năm trước để xếp hạng 68 trên tổng số 190 nền kinh tế. Điều
này cho thấy những nỗ lực cải cách, kiến tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng,
minh bạch của Chính phủ cuối cùng đã mang lại những tín hiệu tích cực, mặc dù
phía trước vẫn còn rất nhiều việc phải làm để bắt kịp với nhóm ASEAN-6.
Bước sang năm 2018, dự kiến xu thế tăng trưởng mạnh của
Việt Nam sẽ tiếp tục nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cùng sự phục hồi
của thị trường hàng hóa thế giới. Bên cạnh đó, một số chính sách rất lớn, đáng
kể nhất là mô hình đặc khu kinh tế đặc biệt hay tiến trình cổ phần hóa các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước hàng đầu được giới phân tích kỳ vọng sẽ mang tới
các động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế. “GDP sẽ tiếp tục duy trì ở mức
6,5 đến 6,7%. Chính phủ hoàn toàn có các dư địa chính sách trong tầm tay nhằm hỗ
trợ mục tiêu tăng trưởng ở mức hợp lý”, Công ty chứng khoán VCBS nhận định lạc
quan.
Thách thức vẫn còn lớn
Dù tiềm năng tăng trưởng mạnh trong năm 2018 là có
nhưng không thể phủ nhận những thách thức lớn vẫn tiếp tục tồn tại, có nguy cơ
đe dọa đến viễn cảnh phát triển của nền kinh tế. Các thách thức đó là nợ xấu
ngân hàng, thị trường bất động sản tăng trưởng chậm lại, chính sách gia tăng bảo
hộ thương mại của các nền kinh tế phát triển, và nhất là lộ trình giảm thuế xuống
còn 0% từ 2018 có thể đe dọa đến khả năng tồn tại của các DN nội địa tại một số
ngành nghề then chốt.
Nợ xấu ngân hàng theo đánh giá thực chất hơn từ Ủy ban
Giám sát tài chính quốc gia vẫn ở mức khá cao với con số 9,5%. Trong năm qua,
dù toàn hệ thống ngân hàng đã nỗ lực trích lập dự phòng, đẩy mạnh quá trình thu
giữ, thanh lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ nhưng kết quả xử lý nợ xấu vẫn còn
khá chậm. “Điều này là do hạn chế của việc bán nợ xấu theo giá thị trường và
quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, ngân hàng được mua lại 0 đồng còn
chậm”, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đánh giá.
"Cục nợ xấu" còn đó tiếp tục đe dọa đến việc
duy trì hay hạ thêm lãi suất để hỗ trợ cho tăng trưởng. Áp lực này thậm chí có
thể tăng thêm nếu thị trường nhà đất tăng trưởng chậm hơn hay chịu tác động từ
xu thế tiếp tục tăng lãi suất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) năm 2018.
Bên cạnh đó, không thể phủ nhận là nội lực của các DN
trong nước vẫn còn hạn chế và tính đa dạng hóa chưa cao. “Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam vẫn phụ thuộc vào một số khu vực như chế biến chế tạo, bất động sản, dịch
vụ... Các ngành này trong năm tới có thể vẫn phát triển nhưng khả năng bứt phá
mạnh mẽ, tăng mạnh như năm 2017 là không cao”, chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Võ
Trí Thành nhận định.
Trước thềm năm mới, nỗi lo của các DN nội địa còn đến
từ nguy cơ mất thị phần khi một loạt các lĩnh vực quan trọng, từ các mặt hàng
ô-tô, xe máy, phụ tùng, linh kiện điện tử đến các mặt hàng nông sản như trái
cây, mía đường phải cắt giảm thuế quan nhập khẩu, xuống chỉ còn 0 đến 5%, theo
lộ trình thực hiện Hiệp định thương mại tự do hàng hóa ASEAN. Tất nhiên, đó còn
là thách thức từ làn sóng bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vốn mang
tới cuộc chiến khốc liệt về công nghệ thông tin, tự động hóa với hàm lượng tri
thức rất lớn mà phần lớn các DN nội địa vẫn còn thờ ơ, chưa chạm đến.
“Việt Nam cần tận dụng thời cơ từ nền tảng công nghệ
do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến nhằm tránh nguy cơ bị tụt lại phía
sau”, ông Trương Văn Phước, quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
thúc ép.
越南的宗教自由毋庸置疑
17:46 |
在越南,宗教自由权利有法可依。越南是多民族、多宗教的国家。越南党和国家坚持“宗教信仰是部分人民的精神需要,一直以来且必将与民族共存”这一观点。因此,越南向来尊重和保证其每个公民的宗教信仰自由权,而且这一政策已取得了良好的成果。在越南的各种宗教活动,发展积极而稳定,信仰宗教的同胞日渐相信党和国家的主张、路线和政策。我国历时宪法均对人民的宗教信仰自由做了明确的规定。例如,越南社会主义共和国2013年《宪法》第24条规定:“一、人人皆有信仰自由;二、国家尊重和保护宗教信仰自由;三、任何人不得侵犯宗教信仰自由或利用宗教信仰自由去做违法行为。”与此同时,宗教信仰自由权还在我国其它多个法律文书中得以具体化。
这表明,对越南国家和政党歧视宗教、违反宗教信仰自由权的指控是不客观的,故意歪曲事实,居心不良,应予以批评和反驳。
宗教信仰自由权在越南得到实际性的保障。据不完全统计,约95%的越南人民享有宗教信仰活动。目前,在越南已得到认可并获得许可证的共有13个宗教、36个宗教组织和一个修行法门,其信徒达三千万名,搢绅、执事、修士十万多名,宗教执事培训机构数十家,祭祀基地数万个等。每年举行的宗教庆典约8500场以及执事、修士的培养培训活动等。其中多名越南执事和修士被派往美国、法国、意大利、印度等国受训。越南宗教执事代表均参加对外宗教信仰交流研讨会,在各大论坛上就教理及教律进行了交流,如:亚欧合作论坛(ASEM)、东盟等,并于1989年与梵蒂冈建立关系。值得一提的是,越南以最高票数入选2014至2016年联合国人权理事会,再次表明国际社会对越南在确保人权(包括宗教自由权)方面的政策、努力与成就已得到了认可和高度评价。
在越南,每一位宗教信徒和执事均能够安心行道,对党和国家的宗教信仰政策充满着信任,并按照“道法、民族和社会主义”的方向做好“民族心中的活福音”、“国盛则道昌”、心怀“敬主爱国”,既行驶对祖国的公民责任和义务又做好一个宗教信徒的本分。不同教派的数千万信徒正继续与全体人民一同寻找相同和相似之处,共同为“民富、国强、民主、公平、文明”的目标而奋斗。可见,越南近年来关于宗教信仰自由的主张、政策的成果斐然,毋庸置疑。
宗教团结也为增强全民族大团结做出了贡献。宗教团结、信仰自由是最基本的观点,也是党和国家宗教政策的主要内容。早在1945年9月2日于巴亭广场宣读了《独立宣言》后的第二天,胡志明主席在主持政府首次会议时就这样宣布:“信仰自由、良教团结”。至今,这一观点已成为越南党和国家制定和实施宗教政策的总体方向,并成为民族的优良传统和宝贵财富,每个人都有责任去保存和发挥。
不能将宗教自由和违法行为混为一谈。与尊重和保障公民宗教信仰自由权利同步的是,越南法律严禁各种利用宗教破坏民族独立和团结、破坏社会主义、阻止信徒履行公民义务等违法行为。对于各种利用宗教信仰来损害国家、民族和人民利益的行为要坚决斗争严格处理。当处理宗教信仰有关问题时,越南提出的要求之一是透明、公正,对不同宗教没有任何歧视或偏爱。实际上,在越南并不存在镇压宗教信仰的现象,而只有一些不法分子利用宗教信仰从事违反越南法律与政策的活动,企图分裂人民,破坏公共秩序,危害国家安全等现象。
然而,某些西方国家却批准了多项未能反映越南宗教信仰现状的所谓宗教、民主及人权决议和法案。美国国际宗教自由委员会每年公布的宗教自由情况报告有很多内容不够客观,甚至污蔑、歪曲了越南的宗教自由情况。这分明是对一个拥有主权的国家的人权的侵犯行为。
众所周知,即便在美国,各项联邦法律也明确规定了反政府的行为及相应的处罚条款。美国的法院对于反政府行为的审判尤其严厉。任何以宗教自由为由来动员力量抵抗政府的人均被各州执法部门逮捕并予以处罚。那么,为什么那些利用宗教自由来违反法律、反对政府的人在越南被有关部门逮捕和惩处时却被看为是“镇压宗教”的行为呢?在与包括美国外交部的海外多个相关组织和个人进行会谈时,越南已提出建议:对于越南的宗教情况应有全面、客观的看法。如果说是因为他们身在美国,所接触到的关于越南宗教情况的信息有所偏离,那么越南就已经很善意地为他们客观了解越南宗教自由情况创造了顺利推进。他们的评估工作应当遵循这一原则和善意。
综上所述,越南的宗教信仰自由是毋庸置疑的。我们须时刻提高警惕,识破各敌对势力利用宗教问题来反对越南现行制度的阴谋手段,并坚决与其斗争。这是每一个越南公民的责任。
Thành tựu tự do tôn giáo ở Việt Nam là không thể phủ nhận
17:45 |
Ở Việt Nam, quyền tự do tôn giáo được khẳng định bằng
luật pháp. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và tôn giáo. Đảng, Nhà nước Việt Nam
luôn nhất quán quan điểm “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc”; từ đó, kiên trì chính sách tôn
trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của mọi người dân và đã đạt
được những kết quả tốt đẹp. Các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam phát triển tích cực,
ổn định; đồng bào có đạo ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các bản Hiến pháp của Nhà nước ta đều quy định rõ về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Điều 24, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “(1) Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng. (2) Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
(3) Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
còn được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước ta, như: Luật
Tổ chức Chính phủ, Bộ luật Dân sự, hoặc trong các văn bản dưới luật để hướng dẫn
mọi tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) thông qua ngày
18-6-2004, Ðiều I quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng,
tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn
nhau”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chịu sự ảnh
hưởng của nền văn hóa Việt và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp văn hóa dân tộc, trong phạm vi pháp luật. Ðiều 8, Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt khẳng định: “Không được phân biệt đối xử vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân”; mặt khác, quy định phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất
nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với
pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia
rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác”. Ðiều 9 của Pháp lệnh cũng quy định: “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật”. Như
vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước thừa
nhận, tôn trọng và bảo hộ. Việc cho rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính
sách kỳ thị tôn giáo, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là thiếu khách
quan, cố tình xuyên tạc thực tế, có mục đích xấu, cần phải lên án, bác bỏ.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được đảm bảo
trên thực tế. Theo thống kê chưa đầy đủ, khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống
tín ngưỡng. Hiện nay, nước ta có 13 tôn giáo với 36 tổ chức tôn giáo và 01 pháp
môn tu hành đã được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với khoảng 30 triệu tín
đồ, trên 100 nghìn chức sắc, chức việc, nhà tu hành, hàng chục cơ sở đào tạo chức
sắc tôn giáo, hàng chục nghìn cơ sở thờ tự, v.v. Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội
tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà
tu hành được duy trì, mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử
đi đào tạo ở Mỹ, Pháp, I-ta-lia, Ấn Ðộ, v.v. Đại diện chức sắc các tôn giáo Việt
Nam đã tham gia đối thoại tôn giáo, tín ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao đổi giáo
lý và giáo luật tại các diễn đàn lớn, như: Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM), Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),… và có quan hệ với Vatican kể từ năm 1989.
Trên cơ sở mối quan hệ này, Vatican đã cử Ðại diện không thường trú tại Việt
Nam từ năm 2011 và đến nay, đặc phái viên không thường trú của Vatican đã thực
hiện trên 20 chuyến thăm tới 60/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Các tổ chức
nhân quyền và tôn giáo quốc tế đã nhiều lần đến thăm, làm việc, khảo sát thực tế
và thừa nhận việc đảm bảo quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo ở
Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ. Đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, do
Phó Chủ tịch Ủy ban Michael Lewis Cromartie nhận xét: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng
ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ…”.
Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb cũng
đánh giá: “Cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân về một vài vụ việc cụ thể
liên quan đến tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận những tiến
bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam,…”. Đặc biệt, việc Việt Nam trúng cử với số
phiếu cao nhất vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016)
một lần nữa thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với
chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong đảm bảo các quyền con người,
trong đó có quyền tự do tôn giáo.
Trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, thành tựu về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lễ hội các tôn giáo và
các hoạt động tín ngưỡng dân gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn
hàng vạn người tham gia; coi đó không chỉ là nhu cầu tâm linh của các tín đồ,
mà còn là nhu cầu sinh hoạt văn hóa của toàn dân. Nhu cầu chính đáng ấy được
chính quyền các địa phương tạo điều kiện thuận lợi, làm cho tín đồ, chức sắc
các tôn giáo yên tâm, phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với tôn
giáo của Ðảng và Nhà nước. Những cơ sở thờ tự của các tôn giáo luôn được Nhà nước
quan tâm, cho phép tu bổ, sửa chữa và xây dựng mới. Nhiều cơ sở thờ tự của tín
ngưỡng, tôn giáo trở thành danh thắng nổi tiếng, đang thu hút khách du lịch
trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng. Phật giáo, trước năm 1975 chỉ có một trường
cao đẳng, nay có bốn Viện đại học Phật giáo. Số người đi tu nghiệp ở nước ngoài
tăng. Công giáo mở thêm các đại chủng viện để đào tạo linh mục. Số linh mục,
giám mục tấn phong ngày một tăng. Sinh hoạt của Công giáo sống động từ giáo họ,
giáo xứ đến giáo phận,... làm cho bà con giáo dân phấn khởi. Các tôn giáo khác,
tùy theo hình thức đào tạo truyền thống của mình, cũng được Nhà nước chấp thuận
mở các lớp đào tạo chức sắc. Ngoài ra, Nhà nước còn cho phép nhiều người đi tu
nghiệp, học tập và thăm viếng ở nước ngoài, trong đó có nhiều người đạt học vị
tiến sĩ, thạc sĩ. Sau khi Nhà xuất bản Tôn giáo được thành lập, đã có hàng trăm
đầu sách của tôn giáo được xuất bản. Quan hệ đối ngoại giữa các cá nhân và các
tổ chức tôn giáo cũng được mở rộng.
Ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã và đang
yên tâm hành đạo và tin tưởng ở chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của Ðảng,
Nhà nước ta. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo đường hướng: “Ðạo pháp, dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo
sáng”, với tấm lòng “kính Chúa yêu nước”, vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ
của công dân đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn
giáo. Hàng chục triệu tín đồ các tôn giáo khác nhau đã, đang và tiếp tục cùng
nhau và cùng toàn dân tìm thấy sự tương đồng, mẫu số chung ở mục tiêu phấn đấu
cho: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những chủ trương, chính
sách và thành công trong việc thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo
ở Việt Nam trong những năm qua là lớn lao, không thể phủ nhận. Thực tiễn đã trả
lời cho câu hỏi, nếu Việt Nam hạn chế tôn giáo, vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo thì các tổ chức tôn giáo có thể xác lập được vị trí, phát triển ổn định và
các tôn giáo ở Việt Nam có thể hội nhập toàn cầu như hiện nay hay không?
Đoàn kết tôn giáo đã góp phần tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Ðoàn kết tôn giáo, tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ bản và
cũng là nội dung chủ yếu của chính sách đối với tôn giáo của Ðảng và Nhà nước
ta. Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Ðộc lập ở Quảng trường Ba Ðình (ngày
02-9-1945), trong buổi chủ tọa phiên họp đầu tiên của Chính phủ mới thành lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng tự do, lương
giáo đoàn kết”. Từ đó đến nay, quan điểm ấy của Người đã trở thành định hướng
chung cho việc hoạch định và thực thi chính sách đối với tôn giáo của Ðảng và
Nhà nước Việt Nam và trở thành truyền thống tốt đẹp, di sản quý báu của dân tộc
mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng, Ðảng và Nhà nước ta luôn coi công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, thông báo,... về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong đó, xác định phương hướng và mục đích cơ bản
của hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo là nhằm tăng cường đoàn kết đồng
bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Kế thừa tư tưởng của Bác Hồ, đoàn kết tôn giáo
luôn được Ðảng ta quan tâm đúng mức, theo tinh thần “đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo”, với mục tiêu là củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng
cháu tiên”, dù có đạo hay không có đạo; dù ở trong nước hay ở ngoài nước, ai
cũng đều mong đất nước Việt Nam cường thịnh. Ðó là mẫu số chung, là sự tương đồng
để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Việt.
Không thể đánh lận giữa tự do tôn giáo và hành vi phạm
tội. Đi đôi với tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân, pháp luật của Việt Nam cũng nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội,
ngăn cản các tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối
với mọi hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của quốc
gia, dân tộc và nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Chủ động phòng ngừa,
kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc,
chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, v.v.”. Cũng như mọi quốc gia trên thế
giới, Nhà nước Việt Nam không cho phép bất kỳ tôn giáo nào được phép đứng ngoài
luật pháp, đứng ngoài dân tộc, đứng trên lợi ích quốc gia. Một yêu cầu khách
quan đặt ra trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam là dù nội sinh hay ngoại sinh,
các tôn giáo muốn phát triển đều phải hòa đồng với dòng chảy văn hóa của dân tộc
và phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Khi xem xét, giải quyết các vấn đề có
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, một trong những yêu cầu cơ bản mà Nhà nước
Việt Nam đặt ra là trong sáng, vô tư, không có sự phân biệt hay đối xử thiên vị
giữa các tôn giáo. Thực tế ở Việt Nam không có hiện tượng chống tín ngưỡng, tôn
giáo, mà chỉ chống những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, gây rối trật
tự công cộng, xâm phạm an ninh quốc gia. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không
phải là quyền vô giới hạn, vì vượt qua phạm vi nào đó sẽ lại vi phạm vào quyền
chính đáng của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính là tự do của người
này, cộng đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng khác. Chẳng
có quốc gia nào mà cá nhân và tổ chức tôn giáo được hoạt động ngoài vòng pháp
luật của quốc gia đó.
Tuy nhiên, một số nước phương Tây đã thông qua nhiều
cái gọi là nghị quyết, dự luật về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền không phản
ánh thực tế đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Hằng năm, Ủy ban Tự do
tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đều công bố Báo cáo tình hình tự do tôn giáo, với nhiều
nội dung thiếu khách quan, thậm chí vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở
Việt Nam. Họ cho rằng, Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người dân; đòi trả tự do cho những đối tượng là chức sắc tôn giáo vi phạm pháp
luật; đòi trả lại đất đai cho các tôn giáo mà chính quyền đã quốc hữu hóa, v.v.
Họ thường cho rằng, Việt Nam kiểm soát hoạt động tôn giáo bằng luật và giám sát
hành chính, hạn chế nghiêm ngặt hoạt động tôn giáo độc lập và đàn áp các cá
nhân và nhóm tôn giáo. Không chỉ thế, họ còn hỗ trợ cho các tổ chức phản động
người Việt ở nước ngoài, như: tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Đảng Vì dân”, “Ủy
ban tự do tôn giáo cho Việt Nam”, các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, chống
đối, linh mục cực đoan quá khích,… nhằm chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức
kích động chức sắc, tín đồ tôn giáo trong nước chống đối, gửi “thỉnh nguyện
thư” lên các tổ chức “dân chủ”, “nhân quyền” quốc tế đề nghị can thiệp, đòi Nhà
nước Việt Nam trả tự do cho số đối tượng vi phạm pháp luật bị chính quyền xử lý
mà họ gọi là “tù nhân lương tâm”. Cá biệt, một số đối tượng là chức sắc cực
đoan trong các tôn giáo gắn vấn đề tôn giáo với dân chủ, nhân quyền, tăng cường
câu kết với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị,… để tuyên truyền, cổ súy
tư tưởng đa nguyên, đa đảng, thực hiện cái gọi là “xã hội dân sự”, nhằm phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đòi tư hữu hóa đất đai; kích động
giáo dân tụ tập, khiếu kiện đông người, chống đối chính quyền, gây phức tạp an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, v.v. Đó là những hành động vi phạm nhân quyền trắng
trợn đối với một quốc gia có chủ quyền.
Trong khi đó, ai cũng biết, ngay tại nước Mỹ, luật
pháp các bang cũng quy định rất rõ hành vi chống chính quyền và chế tài xử phạt
tương ứng. Đặc biệt, các tòa án ở Mỹ cũng rất nghiêm khắc đối với các hành vi
chống chính quyền. Bất kể cá nhân nào có hành vi danh xưng tôn giáo để tập hợp
lực lượng, chống nước Mỹ đều bị cơ quan bảo vệ pháp luật ở các bang bắt, xử lý.
Vậy thì hà cớ gì, những hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật,
chống chính quyền của một số đối tượng ở Việt Nam, khi bị cơ quan tiến hành tố
tụng bắt, xử lý, lại bị đánh lận thành "đàn áp tôn giáo"? Trong nhiều
lần làm việc với cá nhân, tổ chức có trách nhiệm nước ngoài, trong đó có Bộ Ngoại
giao Mỹ, Việt Nam đã đề nghị cần có cách nhìn đầy đủ, khách quan, tôn trọng sự
thật tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nếu như ngay tại nước Mỹ, việc họ tiếp cận
thông tin có những sai lệch, thì Việt Nam đã rất thiện chí, tạo điều kiện để việc
tìm hiểu thực tế tôn giáo đảm bảo khách quan. Việc đánh giá, theo đó, cần tuân
thủ nguyên tắc và thiện chí này.
Những điều trên cho thấy, không thể phủ nhận tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận diện, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
tôn giáo để chống đối chế độ là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam.
提高警惕 应付“和平演变”新手段
17:37 |
“和平演变”的概念出现于20世纪的20年代,是帝国主义反革命的全球战略的重要办法。二战后,美国政治战略家的乔治·凯南(G.Kainan) 对“和平演变”进行研究,并建议将其提升为“和平演变”战略。
“和平演变”是一场暗中而激烈的大战,其攻击目标多、范围广,包括政治、经济、思想、理论、文化、艺术、国防安全等领域,旨在激发矛盾,破坏共产党内部思想、团结统一,导致自我衰退,自我演变。敌对势力对他们无法获得军事胜利的国家采用“和平演变”战略——“有征无战”的总攻击招儿,屈服对方,进而颠覆对方的现行制度。
敌对势力对越南采取“和平演变”战略的最终目的是废除越南共产党的领导作用和颠覆社会主义制度,迫使我国走上资本主义轨道,并逐渐依赖于帝国主义。为了达到目的,敌对势力不择手段,使用多种狡猾、阴毒手段来进行全面破坏。通过“和平演变”战略,他们直接对人民的认识及思想造成影响,把简单、个别、公开的事情歪曲成复杂、普遍及隐晦的事情,颠倒是非,“偷天换日”,拉拢政治立场不稳定的人群来为其服务。近期,流亡反动党派和反共极端组织通过示威游行、会议及网络向海外越侨宣传、歪曲、要求越南执行民主和人权。这些反越活动的煽动、资助者都是对越南持有不满态度的组织和个人,旨在干涉我国内政事物。
目前,敌对势力对我国采取“和平演变”的阴毒手段之一是直接干涉越南制定、完善和执行法律的过程。这被确定为敌对势力易于攻击、改变我国政治制度、经济、文化、社会及国防安全的渠道,驾驶越南依照他们的剧本转向发展。对我国军队,他们追求“军队国家化”,“制定关于军队组织和活动的法律”,其实质是废除共产党对军队领导的机制,让军队脱离共产党的领导,导致“非政治化”。
更为阴险的是敌对势力已经调整新战略手段,由以前否认越南共产党的领导作用转向在形式方面“可以接受”共产党的领导作用,但转向攻击,使党内部腐败、退化,导致失去群众的信心,自己失去对国家和社会的领导作用。当越南共产党按照十一届四中全会颁布关于党建设问题的决议,旨在加强党内部自己检讨,执行批评和自己批评原则。敌对势力却歪曲为“形式主义”“不关痛痒”等。在努力破坏我党的思想、主张及路线的同时,敌对势力还加强呼吁国际组织推动我党内部和国家领导等政治系统的“民主化”,激发关于战略决策的意见分歧,特别是关于越南社会在新时期的发展路线; 激动分歧,离间党和人民的团结。同时,他们积极组织党内和社会中的对抗力量;破坏民族团结和党领导、国家管理及人民作主的机制,破坏民族建国卫国历史中培养出来的同甘共苦传统。一些流亡反动组织拉拢政治机会分子,利用国家推广民主、行政改革、媒体自由、思想自由的主张来歪曲和诬告我党和国家的政策和路线,有人还联结反动分子,成立反动党派组织旨在废除现行制度; 发动全面的破坏攻击,破坏经济、社会秩序、政治路线、各武装力量的战斗力及贬低越南在国际平台上的地位。
近期,利用中国在越南大陆架纵深违法架设海洋石油981钻井平台的事件,若干反动势力以“反对中国违法行为”为借口,激动并拉拢群众参加反对政府的违法示威游行。故意将反对中国的示威游行转变成为反对制度、国家及颠覆现行制度的示威游行,分散地方政府的集中领导,对地方政府施压,破坏外资企业的正常活动,旨在破坏政治、经济及社会的稳定,破坏越南在国际平台上的地位。更为危险的是反动势力利用一些过激分子来实现他们反对党及废除现行制度的企图,诬告越南劳动联合会不保护工人的权益。从此要求实施多党制度,建立独立工会,离间党和群众的团结,进行“颜色革命”,旨在颠覆现行制度。
我国长期发展的历史证明,越南发展的规律是将卫国事业与建国事业相结合,建设社会主义与保卫社会主义祖国同时进行。在当前的革命阶段,该规律还依然保持其完整的价值。我们不过分地高看敌人的力量,但是实践让我们认识到在斗争过程中,不可放松警惕。(完)
Đề cao cảnh giác trước thủ đoạn mới của chiến lược “Diễn biến hòa bình”
17:35 |
“Diễn biến hòa bình” xuất hiện vào những năm 20 của thế
kỷ XX với vai trò là giải pháp quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng
của chủ nghĩa đế quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, G.Kainan - một trong những
chiến lược gia chính trị của Hoa Kỳ - đã nghiên cứu, đề xuất, nâng lên thành
chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá XHCN. Từ đó đến nay, nó luôn được
các thế lực thù địch triệt để tận dụng với những thủ đoạn mới, ngày càng tinh
vi, nguy hiểm hơn. Bởi vậy, chúng ta phải luôn cảnh giác với mưu đồ đó và có đối
sách đấu tranh kiên quyết, hiệu quả.
“Diễn biến hòa bình” (DBHB) là cuộc chiến thầm lặng
nhưng hết sức quyết liệt nhằm tiến công vào các mục tiêu bên trong cả về chính
trị, kinh tế, tư tưởng, lý luận, văn hóa, nghệ thuật, an ninh - quốc phòng;
khoét sâu mâu thuẫn, phá vỡ sự thống nhất về tư tưởng, ý chí trong Đảng Cộng sản
(ĐCS), làm cho nội bộ suy yếu và tự diễn biến. Chiến lược này được các thế lực
thù địch tiến hành chủ yếu với những nước đã từng bị tiến công về quân sự hoặc
gây lật đổ nhưng không đạt mục tiêu, nay phải dùng chiêu bài tiến công tổng lực
“Bất chiến tự nhiên thành” (không đánh mà thắng) hòng khuất phục đối phương,
xóa bỏ chế độ hiện hành.
Đối với Việt Nam, mục tiêu nhất quán của các thế lực
thù địch trong sử dụng chiến lược “DBHB” là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt
Nam và chế độ XHCN, lái nước ta đi theo con đường TBCN, lệ thuộc vào chủ nghĩa
đế quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, chúng không từ bỏ bất kỳ mưu đồ nào, chống
phá ta một cách toàn diện, với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Thông qua chiến
lược “DBHB”, chúng đánh thẳng vào nhận thức, tư tưởng của người dân, biến những
việc đơn giản thành phức tạp, cá biệt thành phổ biến, những điều dễ hiểu thành
khó hiểu, đánh tráo khái niệm, thực hiện trò “đánh lận con đen” nhằm lôi kéo những
người hạn chế về nhận thức chính trị phục vụ cho mưu đồ của chúng. Không khó hiểu,
khi thời gian gần đây, ở hải ngoại, bà con trong cộng đồng người Việt thường
nghe các tổ chức chống cộng cực đoan, các đảng phái phản động người Việt ra rả
tuyên truyền, xuyên tạc, đòi tự do “dân chủ”, “nhân quyền” ở Việt Nam thông qua
các cuộc biểu tình, hội họp và trên vô số trang mạng điện tử. Việc làm đó luôn
có các tổ chức, cá nhân không có thiện cảm với Việt Nam đứng đằng sau cổ súy,
kích động, gây hỏa mù, tài trợ để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Sự chống phá Việt Nam thông qua chiến lược “DBHB”của
các thế lực thù địch không phải bây giờ mới diễn ra mà âm mưu đó đã có từ lâu.
Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự xâm lược với
âm mưu biến Việt Nam thành thuộc địa của chúng nhưng cuối cùng đã bị thất bại.
Sau khi sử dụng đòn tấn công quân sự không thành, chúng chuyển sang chiến lược
mới, như: “bao vây, cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao” kết hợp với
“DBHB”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Trong thời kỳ này,
lợi dụng việc nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội (từ năm 1975 -
1994) do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ XHCN ở Liên Xô,
Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “DBHB”, nói xấu Đảng, chế
độ, bôi nhọ danh dự các lãnh tụ,... Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi
to lớn của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN do ĐCS Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống
phá cách mạng nước ta. Chúng tuyên bố xoá bỏ “cấm vận kinh tế” và bình thường
hóa quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập,
như: “dính líu”, “ngầm”, “sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Có thể
thấy, hình thức, thủ đoạn chống phá bằng chiến lược “DBHB” cũng thay đổi theo từng
giai đoạn biến động trên trường chính trị thế giới và tình hình trong nước. Hiện
nay, thủ đoạn mới của chiến lược “DBHB” là lợi dụng ngay các chủ trương, chính
sách đổi mới để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, với
mưu đồ: Lấy lĩnh vực chính trị là then chốt; kinh tế là lâu dài, thường xuyên;
chuyển hóa Quân đội và Công an là mục tiêu trước mắt. Theo đó, kế hoạch chiến
lược của chúng là thực hiện theo lộ trình 3 giai đoạn: Giai đoạn 1, đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, từ đó làm chệch
hướng XHCN, phát triển kinh tế thị trường TBCN. Giai đoạn 2, hình thành “xã hội
dân sự” ở Việt Nam, tạo môi trường, cơ hội để các tổ chức chính trị đối lập xuất
hiện và hoạt động công khai, gây rối loạn trật tự, an toàn xã hội. Giai đoạn 3,
thực hiện “dân chủ hóa” chính quyền các cấp, từng bước cô lập, tách các tổ chức
đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, đẩy mạnh thực hiện “phi chính trị hóa” Quân
đội và Công an. Để che đậy thủ đoạn đó, chúng xuyên tạc rằng: ĐCS rất “lo sợ”
có sự chính biến trong nước nên lúc nào cũng tuyên truyền về “DBHB”. Diễn biến
là do các nhà cầm quyền và ĐCS nghĩ ra, “suy diễn thái quá”, “mắc bệnh tự kỷ”,
“tự mình sợ mình”,… Mục đích của chúng là làm cho mọi người lầm tưởng rằng
không có “DHBH”, dẫn đến chủ quan, mất cảnh giác để chúng dễ bề thực hiện mưu đồ
đen tối.
Một trong những thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược
“DBHB” của các thế lực thù địch, phản động hiện nay là, tập trung tác động vào
quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật ở Việt Nam. Sở dĩ đây được
coi là hướng tấn công chủ yếu của “DBHB” đối với cách mạng nước ta, vì nếu thực
hiện thành công thủ đoạn này sẽ làm thay đổi chế độ chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi theo kịch
bản của chúng. Đối với Quân đội, chúng đòi “Quốc gia hóa quân đội”, “Luật hóa mọi
vấn đề về tổ chức và hoạt động của Quân đội”, thực chất là nhằm loại bỏ cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, dẫn
đến “phi chính trị hóa”. Đáng tiếc là, thời gian qua, trong nội bộ ta vẫn có những
người chủ quan, mất cảnh giác, thậm chí mất cảnh giác nghiêm trọng trước âm
mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch, phản động. Có người còn không tỉnh
táo, bị mắc mưu, phụ họa, cổ súy cho những luận điệu của địch đòi “đa nguyên”,
“đa đảng”, đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp; đòi tam quyền phân lập theo mô hình
TBCN, xây dựng “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, “phi chính trị hóa” lực
lượng vũ trang, “chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân
chủ một cách ôn hòa”,... Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, còn có ý kiến
thiển cận phê phán, phủ nhận những thành quả của đất nước và nhân dân ta trên
lĩnh vực này; đòi áp dụng rập khuôn những quy định, mô hình pháp luật của thể
chế chính trị tư sản vào Việt Nam,... Rõ ràng, đó là những biểu hiện của sự giảm
sút ý chí cách mạng, mất cảnh giác, không nhận rõ tính chất phức tạp của cuộc đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới, không phân biệt rõ “đối tượng, đối
tác”, mơ hồ về tư tưởng chính trị và thủ đoạn nguy hiểm của kẻ địch. Và, một
khi những quan điểm cực đoan của các thế lực thù địch về “đa nguyên chính trị”,
“đa đảng đối lập”, “dân chủ”, “nhân quyền”, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền của
các dân tộc thiểu số được kích động sẽ chuyển thành hành động chính trị phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ổn định xã hội, phủ nhận thành quả giành độc
lập dân tộc hơn nửa thế kỷ qua của nhân dân ta. Từ đó, chúng đòi đưa nước ta,
dân tộc ta đi theo con đường khác với mục tiêu đã lựa chọn; làm xói mòn lòng
tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Thâm độc và nguy hại hơn khi sự điều chỉnh thủ đoạn
chiến lược mới của các thế lực thù địch chuyển hướng từ tập trung phủ nhận vai
trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam sang “có thể chấp nhận” về hình thức lãnh đạo của
Đảng, nhưng tập trung làm cho Đảng bị tha hóa, biến chất, mất lòng tin với nhân
dân, tự đánh mất vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Khi Đảng tổ chức đợt sinh
hoạt chính trị sâu rộng nhằm đẩy mạnh kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, khắc
phục khuyết điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng thì
chúng cho đó chỉ là hình thức, chẳng đâu vào đâu,... Cùng với chống phá nền tảng
tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, các thế lực thù địch còn tăng cường
tác động các tổ chức quốc tế để thúc đẩy “dân chủ hóa” trong hệ thống chính trị,
trong nội bộ Đảng và bộ máy lãnh đạo Nhà nước Việt Nam; kích động sự bất đồng
chính kiến về những quyết sách chiến lược, nhất là định hướng phát triển của xã
hội Việt Nam trong giai đoạn mới; kích động gây chia rẽ, tạo sự phân hóa giữa
nhân dân và Đảng. Đồng thời, tạo lập lực lượng chính trị đối lập trong Đảng và
trong xã hội; làm xói mòn khối đoàn kết, thống nhất và cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ; chia rẽ truyền thống “chia ngọt, sẻ bùi”, gắn bó keo sơn đã
được tôi luyện trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta. Một số tổ chức phản động ở hải ngoại móc nối, lôi kéo các phần tử cơ hội
chính trị, lợi dụng chủ trương của Nhà nước về mở rộng dân chủ, cải cách hành
chính, tự do tư tưởng, tự do báo chí, viết bài tung lên mạng, hoặc được các đài
báo phương Tây, như: BBC, VOA, RFA, RFI,… móc nối, trả lời phỏng vấn, phát tán
quan điểm cá nhân, xuyên tạc, vu cáo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Chúng lợi dụng truyền thông, báo chí là công cụ để “chuyển hóa” Việt
Nam trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XII, với các thủ đoạn: 1- Tăng cường tiếp
xúc, trao đổi, định hướng thông tin cho đội ngũ biên tập viên các báo, đài; 2-
Hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực điều tra độc lập cho đội ngũ phóng viên thu
thập thông tin, viết bài theo định hướng của chúng; 3- Đăng tải các tin, bài nhạy
cảm về những bất cập trong hệ thống chính trị, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ;
4- Tăng cường cơ chế phản hồi từ độc giả trên các kênh phát thanh, truyền hình,
báo chí chính thống, thúc đẩy sự hình thành và phát triển hoạt động phản biện
xã hội,… Có kẻ còn kết nối các phần tử chống đối mưu toan thành lập các tổ chức
đảng chính trị phản động nhằm lật đổ thể chế hiện hành; thực hiện cuộc tiến
công phá hoại nhiều mặt hòng làm suy yếu nền kinh tế, rối loạn về xã hội, chệch
hướng đường lối chính trị, mất sức chiến đấu của Quân đội, Công an và hạ thấp vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Đáng chú ý là, thời gian gần đây, lợi dụng sự kiện
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào sâu trong thềm lục địa
Việt Nam, một số đối tượng hữu hảo và thế lực thù địch “đục nước béo cò”, lên
tiếng rêu rao, kích động: “Trước hành động vi phạm chủ quyền trắng trợn của
Trung Quốc, Việt Nam đã nhu nhược trong thực hiện chủ trương bảo vệ Tổ quốc, không
có nhiều biện pháp bạo lực xua đuổi Trung Quốc ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa, mà chỉ “đấu tranh miệng” theo kiểu nửa vời”. Đồng thời cho rằng,
“chúng ta cần phải sử dụng biện pháp quân sự, cần “sống mái”, quyết chiến với
Trung Quốc một phen”. Từ đó, đấu tranh, tạo áp lực đòi Quân đội ta phải hành động
mạnh mẽ, cứng rắn để bảo vệ cương vực, lãnh thổ. Không những thế, một số thế lực
còn lợi dụng lòng yêu nước, kích động, dụ dỗ, mua chuộc nhân dân tham gia biểu
tình trái pháp luật dưới danh nghĩa phản đối Trung Quốc rồi tìm cách hô hào,
kích động Nhà nước “nhu nhược”; chuyển từ biểu tình phản đối Trung Quốc sang
thành biểu tình chống Nhà nước, lật đổ chế độ; làm phân tán sự lãnh đạo, chỉ đạo,
tạo áp lực với chính quyền, phá hoại hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, nhằm gây mất ổn định về chính trị, kinh tế, trật tự, an toàn xã
hội, làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Nguy hiểm hơn, các
thế lực phản động còn lợi dụng việc một số người thể hiện lòng yêu nước chưa
đúng mức, đúng cách để thực hiện mưu đồ chống Đảng và thể chế chính trị hiện
hành, vu cáo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam không chăm lo bảo vệ quyền lợi của
công nhân; từ đó, kêu gọi thực hiện chế độ đa đảng, thành lập công đoàn độc lập,
chia rẽ Đảng với nhân dân, tạo cớ thực hiện cuộc “cách mạng màu”, làm thay đổi
chế độ chính trị hiện hành. Có thể nói, mưu đồ của các thế lực thù địch lợi dụng
tình hình phức tạp trên Biển Đông hiện nay là rất tinh vi, nham hiểm, thể hiện
thủ đoạn mới của chúng trong chiến lược “DBHB” chống phá cách mạng Việt Nam. Nếu
không tỉnh táo, chúng ta rất dễ mắc mưu và khi đó tình hình sẽ rất phức tạp.
Lịch sử đã chứng tỏ quy luật vận động và phát triển của
nước ta là dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng CNXH gắn với bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quy luật này vẫn giữ nguyên
giá trị thời sự. Chúng ta không cường điệu, đánh giá quá cao kẻ địch, nhưng thực
tế đã dạy rằng, trong đấu tranh, tuyệt nhiên không bao giờ được lơi lỏng mất cảnh
giác. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nâng cao cảnh giác, nhận thức đúng
và đầy đủ tính chất gay gắt và phức tạp của cuộc đấu tranh chống “DBHB”; âm
mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá cách mạng của các thế lực thù địch,
phản động. Từ đó, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi gây
phương hại đến sự ổn định, vững mạnh và phát triển của đất nước. Để làm thất bại
thủ đoạn mới của chiến lược “DBHB”, chúng ta phải tăng cường công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, kịp thời giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, không để
kẻ địch lợi dụng; nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Đồng thời, phải phân tích làm rõ thủ
đoạn mới của chiến lược “DBHB”, khắc phục mọi biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh
giác, thiếu niềm tin vào tương lai của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Làm
tốt công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; củng cố hệ thống chính trị
vững mạnh; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý bí mật thông
tin. Các cấp cần thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở, đẩy mạnh công tác dân
vận, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Mặt khác, phải thường xuyên chú trọng
xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh về mọi mặt, thực sự làm nòng cốt trên mặt
trận bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Mặc dù, chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch đối
với nước ta đang diễn ra với nhiều thủ đoạn mới, tinh vi, nguy hiểm, nhưng với
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong xã hội, tinh thần cảnh giác cách mạng
không ngừng, ý chí quyết tâm chiến đấu cao, nhất định chúng ta sẽ làm thất bại
mọi mưu đồ của chúng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
2017年的越南旅游奇迹
17:23 |
《人民报》报道,2016年当越南接待外国游客量首次超过1000万人次,比2015年增加了200万人次时,舆论将之视为一个奇迹。
但是,今年的结果更加引人瞩目。越南文化体育与旅游部在国家旅游指导委员会2017年工作总结暨2018年任务部署会议上的报告显示,2017年外国游客到访量约达1300万人,接待国内游客量达7320万人,旅游收入总额达510.9万亿越盾。
与2016年相比,外国游客到访量增加了300万人次,相当于30%,接待国内游客量增加了1120万人次,相当于18%,旅游收入总额增加了110.9万亿越盾,相当于27.7%。更令人高兴的是各国际组织所给予的积极肯定和评价,即越南旅游公司Vietravel被评选为世界领先团队旅游运营者(World's
Leading Group Tour Operator)以及越南岘港洲际太阳半岛度假村(Inter
Continental Danang Sun Peninsula Resort)第三次获得“世界最豪华度假村”殊荣。
此外,题为“为包容与对接的亚太地区促进旅游可持续发展”的2017年亚太经合组织旅游可持续发展高级宣言得以通过,其中鼓励各成员经济体作出长期且具有可行性的经济贡献,给APEC共同体的所有相关各方带来利益,营造具有竞争性的环境,为从事与旅游有关的工作的所有企业尤其是微型和中小型企业提供协助,利用新的先进技术带来的变化。
上述成绩来自党和国家所提出的大决策。那就是越共中央政治局2017年1月16日颁布有关使旅游业发展成为先导经济产业的第08-NQ/TW号决议,第十四届国会第三次会议通过2017年《旅游法》(修正案)。上述决策已为旅游业乃至国家发展事业提出战略方向,根据市场经济规律大力改革旅游发展思路,创造法律框架并开发各种资源,让越南旅游业腾飞。
上述结果逐步被旅游部门和相关部门细化,并带来了若干积极变化。2017年,多家大型企业已参加旅游推介活动,互联网和社交网的发展使得推介渠道日益丰富。签发电子签证、朝着简单方向改进入境手续等为游客提供便利条件,旅游设施继续得到改善,多个达到国际标准的旅游项目投入使用,为提升服务质量作出贡献。鉴于越南文化价值,文化旅游、遗产旅游被看待为吸引国际友人的特别优势而日益得到关注。
2017年越南旅游业的成绩是值得鼓励的。然而,我们要坦率承认,越南旅游业仍存在需要各级部委尽快且坚持克服的不足和薄弱之处。今后,必须要大力进行旅游业结构重组,将之视为保持可持续增长的关键措施。
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...