旅德越南人举行和平示威游行 抗议中国在东海的行为

14:59 |
旅居德国法兰克福及周边地区的数百名越南人在中国驻法兰克福总领事馆前进行了和平示威游行,对中国近期在包括越南黄沙和长沙两个群岛在内的东海实施军事化,加剧了东海紧张局势等表示抗议。
为维护越南海洋岛屿主权而牺牲的战士举行超度法会结束后,组委会朗读抗议书,反对中国的行为。同时,示威者还向德国和国际朋友散发关于越南对长沙、黄沙两个群岛拥有主权的传单。
身穿着印有金星红旗的T恤,高举反对中国在归属越南长沙群岛的十字礁进行试飞、向越南黄沙群岛的富林岛部署地空导弹(红旗-9)以及反对中方加紧扩建东海岛礁成以建立海空军基地等的标语。
随后,示威者继续前往兰克福罗马广场,就越南海洋海岛主权做了宣传。此次和平示威游行活动吸引众多当地居民和游客参加。
越南外交部发言人黎海平225日在外交部例行记者会上强调,越南对黄沙和长沙两个群岛的主权是不可争辩的。中方不顾越南和国际社会的反对和担忧,继续采取严重侵犯越南主权、推动东海军事化,威胁地区和平稳定以及东海航行与飞越自由和安全等的行为。越南坚决反对侵犯越南主权的行为,要求中方在遵守国际法,特别是1982年《联合国海洋法公约》和《东海各方行为宣言》等的基础上以负责任和建设性的言行为维护地区乃至世界和平稳定做出努力。”
Đọc thêm...

Người Việt ở Đức phản đối Trung Quốc gây căng thẳng Biển Đông

14:58 |
Chiều 28/2, hàng trăm bà con người Việt sống tại thành phố Frankfurt am Main và các vùng phụ cận của Cộng hòa Liên bang Đức đã tổ chức cuộc tuần hành biểu tình trước Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố này để phản đối các hoạt động gây leo thang căng thẳng của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây.
Mở đầu chương trình là lễ tưởng niệm, cầu siêu cho các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh vì chủ quyền biển đảo, biên giới của đất nước. Tiếp đó, Ban tổ chức đã đọc kháng thư phản đối Trung Quốc và những người tham dự tiến hành phát tờ rơi tuyên truyền cho các bạn bè Đức và quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa cũng như tố cáo các hành vi hiếu chiến, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc trên Biển Đông trong những tháng qua.
Trước Tổng lãnh sự quán Trung Quốc, đoàn người trong trang phục áo đỏ sao vàng truyền thống của Việt Nam đã cùng giương cao các biểu ngữ, hô vang những khẩu hiệu phản đối những hành vi ngang ngược, hiếu chiến của Trung Quốc trên Biển Đông khi liên tiếp tiến hành bay thử máy bay quân sự, dân sự ra đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa và triển khai tên lửa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, cũng như vẫn tiếp tục gia tăng xây dựng, củng cố các đảo và bãi đá ngầm thành những cứ điểm quân sự.
Có mặt trong đoàn người tham gia biểu tình, Đại đức Thích Đồng Hòa, một nhà sư người Đức trả lời phỏng vấn của phóng viên đã nhấn mạnh việc xây dựng, bồi đắp, cải tạo và triển khai vũ khí của Trung Quốc tại các đảo, đá trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là hành động sai trái, phi pháp, đi ngược lại xu thế của nhân loại tiến bộ.
Cũng theo Đại đức Thích Đồng Hoà, việc giải quyết tại các khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước ASEAN có liên quan cần phải được thực hiện thông qua các biện pháp đối thoại hòa bình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Sau khoảng 1 tiếng rưỡi biểu tình trước Tổng lãnh sự quán Trung Quốc, đoàn biểu tình tiếp tục di chuyển tới khu quảng trường Roemer trước tòa thị chính thành phố Frankfurt và kết thúc sau chùm hoạt động tuyên truyền về biển đảo tại đây.
Cuộc biểu tình đã thu hút được sự quan tâm, tham gia, hưởng ứng của đông đảo người dân địa phương, khách du lịch trong suốt quãng đường di chuyển từ trước Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tới quảng trường tòa thị chính thành phố Frankfurt./.
Đọc thêm...

《跨太平洋伙伴关系协定》:机遇与挑战——我们的举措

14:48 |
澳大利亚、文莱、加拿大、智利、日本、马来西亚、墨西哥、新西兰、秘鲁、新加坡、美国及越南等12个国家于201624日签署了《跨太平洋伙伴关系协定》(以下简称为TPP)。TPP各成员国GDP占全球GDP总额的40%,贸易额占全球的30%。这是新型自由贸易协定,在生产力量迅速发展和融入国际社会日益广泛的背景下,该协定被期望成为地区和世界具有更高水平的贸易发展典范。
我国签署TPP一事不仅是来自本着一边合作一边斗争以及以国家和民族利益为最高目标的精神坚持谈判的五年过程。而且,这是30周年实行革新进程所带来的成果,其中融入全球经济是不断得到有力肯定以及党的各项决议涉及到的一项重要内容。这也是自从我国签订和实施越南—美国贸易协定,加入东盟自由贸易区、东盟与各对话伙伴国之间的自由贸易协定以及加入世界贸易组织之后从融入国际社会实践中所得出的经验。融入全球经济还是我们正在建设的社会主义定向现代市场经济体制的重要内涵。
落实积极且主动融入国际社会的政策,越共十届和十一届中央政治局已同意政府提出有关参加若干新项自由贸易协定谈判的建议。这是市场开放承诺程度比过去所签署的世贸组织和各项自由贸易协定更高的协定。尤其是,TPP和越南与欧盟自由贸易协定(EVFTA)是全面和利益平衡的协定,其拥有在商品贸易、服务、投资、高水平知识产权保护等方面上的深广市场开放以及有关市场经济体制、国有企业、公共采购等方面上的承诺,旨在营造一个透明和公平竞争的经营环境。上述协定还包含着虽然不是直接贸易但与贸易有关的环境和劳务的各项内容。以上述主要内涵,TPPEVFTA被称为新型自由贸易协定。
TPP是全面的市场准入协定,通过迅速取消进出口关税和非关税壁垒确保货物、服务、资本以及技术在更高程度上的自由流动,营造公平有序的经营环境,为经贸和投资活动创造便利条件,进而为生产经营活动、劳动者以及消费者带来更多利益。
TPP将促进12个成员国市场间新的生产网络和供应链的形成,为区内贸易蓬勃发展创造便利条件,提高经济效益,助推经济增长,为实现创造就业机会、提高收入和改善人民生活等目标提供便利,为解决当代经济的挑战作出贡献,鼓励改革、创新、发展数字经济、制定国有企业的竞争政策和运行规则以及保护劳动者的基本权利和环境。该协定还设有确保拥有不同发展水平的各成员经济体以及不同规模的企业均能够获益的规定,帮助中小型企业渡过挑战、利用机会来发展。TPP也包含着有关技术援助、提升能力的承诺,具有关于实施进程的灵活性,符合于每个成员国的发展水平,旨在各方有能力满足承诺并充分利用该协定的利益。与此同时,该协定也提出实施监督机制和各种违反行为的处理规定。
TPP尊重各国的政治体制,承认严格遵守国家法律规定的要求,合乎各国际承诺并不包括有关国防安全的内容。该协定有望为融入本地区经济奠定新基础并为亚太一带其他各国提供参与机会。
在国家经济发展水平仍较低并面对诸多困难的背景下,本着愿意接受竞争的精神主动决定加入新型自由贸易协定,尤其是TPP,努力渡过挑战、争取机会以迅速且可持续发展体现出我党和国家的政治定力、敏锐思维及时代性视野。这也肯定对越南人民、越南民族的意志、能力及力量的信心。
TPPEVFTA将给我国带来诸多机遇,但也出现许多挑战。
上述协定将为经济社会发展注入新动力,尤其是在招商引资和加大同世界各大经济体的出口力度,其中有由28个成员国组成,GDP总额超过18万美元的欧盟以及由12个成员国组成,GDP总额超过20万美元的TPP。这是拥有技术、出口市场并多年来吸引最多越南投资额的地区。若涉及到上述协定与所签署或者正在谈判的自由贸易协定的共振效应最,我国将获得更大的机遇,因为我国将同55个国家,其中有二十国集团中的15个国家建立自由贸易关系。
在越南人均收入和国内消费仍低的条件下,出口和投资对经济增长、创造就业和提高人民生活质量起着决定性作用。提高对这些市场的出口比重使与其他国家的贸易关系变得更加平衡。上述协定中的各项承诺为完善现代市场经济体制、推进结构重组进程和增长模式转型等构建标准框架。加入上述协定后,越南在一贯奉行独立、自主、全方位和多样化关系的对外路线,提高越南在国际舞台和战略性竞争日益激烈的地区中的地位等迈出新步伐。
上述协定除了带来了许多机遇之外,也摆在我们面前的不少挑战。即是不仅在各成员国市场上而且在国内市场上发生的竞争日益激烈,在产品、企业和国家等三个方面都存在着竞争,尤其是在体制质量和经营环境。在竞争压力之下,若干企业在推进结构调整之后若不能实现增长就解散或宣告破产,一部分劳动者面临失业危机,农业将是弱势产业并农民是弱势群体;若快速、可持续发展战略不能得到有效的落实以确保所有居民共享发展成果,贫富差距将日益扩大。从完善法律体系至人力资源培训、提高干部职员、技术及法律专家能力等都面临着较大的挑战。劳动工会这一内容也对越南劳动总联合会的活动和整个政治体系提出新挑战和新要求。
应充分意识到有利机遇自身不能转化为经济实力、利益和竞争力而要通过努力和国家、人民和企业等主体的高效运行。所面对的挑战和压力是不可避免,但是影响程度还取决于每个主体的应对能力。如果抓住好有利机遇并应对好挑战,能够创造更大的新机遇;与此相反,若让挑战困难日益加剧,就难以恢复正常。应强调的是,在各项自贸协定中,机遇与挑战总是并存的,挑战中隐藏机遇,这也是发展过程中的辩证法。
在全球化和融入国际经济日益广泛且深远,东盟经济共同体正式建成,加入包括TPP在内的一系列新自贸协定的背景下,并在因特网迅猛发展,跨境贸易额在全球贸易中所占比重不断上升,多式联运和物流服务取得显著进展使国内市场与国外市场之间的境界似乎逐渐模糊的条件下,进口替代和出口导向的工业化模式没有了它原始的意义。许多国家已转向基于竞争力、创造比较优势、把比较优势转化为竞争优势、参与生产网络和全球价值链的工业化模式;同时努力称霸在价值链中的高附加值环节。
为了利用好机遇并应对各种挑战困难,目前提高经济体的竞争力就是当务之急。其中,应确定好各主体在履行任务中的作用和具体行动。
企业是决定微观竞争力的主体,反映了经济体的实力和竞争力。企业应敢于面对竞争并主动、同步采取各项措施以不断提高商品服务在国内外市场上的竞争力,然而,企业不能自己决定一切,而必须在一定的体制框架和经营环境中运行。这是完全依赖于国家。
许多研究结果和各国实践表明,国家治理体制就是宏观竞争力和经济发展的决定性因素。快速、可持续发展还是停滞落后主要由体制质量决定的。建立一个好的体制、保证法治国家和人民行使民主权利并符合于现代市场经济等将唤起了综合力量和调动各种资源来发展。所以,体制对企业的效益和竞争力起着决定性作用。
为了建立一个优质的体制,要明确国家、市场、企业与社会之间的关系。国家要履行好建造发展的职责,尤其是保持宏观经济稳定;建立法律、政策、战略、规划等体系,设置管理机构以营造良好、透明的经营环境,保障自由经营权和公平竞争,使用国家资源、政策和调控手段来实现文化发展,保障社会公平与进步,做好社会保障工作,提高社会福祉和人民的生活水平;环保;保障基本公共服务,开发经济社会基础设施体系,展开人力资源培训和加强国防潜力,维护政治安全和社会治安秩序。
市场对筹集、分配和利用资源作出决定。企业在不受法律禁止的领域对经营活动自己作出决定,并提高对社会的责任感和经营文化。为了尽可能多减少市场和国家的缺点,社会通过民众、组织机构、职业协会、专家、研究者个人为制定、反馈和对落实政策的监督作出贡献。
在准确地看待上述关系的基础上,我们要本着全面实现经济、政治革新的精神抓紧继续健全法律制度和体系以满足现代市场经济、融入国际社会的需求和对自由贸易协定,尤其是新型自由贸易协定的承诺。全力以赴建设和健全属于人民、来自人民、为人民和法律至上的法治国家。公民可以做法律不禁止的工作。干部职员只能做和务必做法律规定的工作。
继续推行改革要保障法律、组织机构与干部职员之间的统一性。组织机构臃肿重叠将造成资源浪费,对发展造成阻碍。要敢于革新,战胜阻力、保守主义才能健全领导管理组织体系,提高国家管理能力,满足新发展阶段建设和捍卫祖国的要求。
在制度改革过程中要求改善经营环境。制度为改善经营环境制定框架和界限。没有适合的制度就没有良好的经营环境。制度改革中的进步要充分体现在改善经营环境上。这不仅与组织机构有关,而且与干部职工的质量息息相关。要着力打造德才兼备、一心一意为人民服务的干部职员队伍。尤其,培训一支满足融入国际社会、竞争和发展要求的法理干部、企业管理者队伍。
只有基于适合国家管理制度革新,才能提高实现经济重组、增长模式转型的质量、效果,加快科技应用,增进劳动效率,提升产品、企业乃至经济的竞争力,聚田换地,打造大型货物生产区和附加值高、供应来源稳定的清洁农业,进而可以快速扩大国际市场份额。否则就无法利用《跨太平洋伙伴关系协定》、《越南-欧盟自由贸易协定》和新型自由贸易协定带来的机遇。
《跨太平洋伙伴关系协定》和《越南-欧盟自由贸易协定》要求国营企业将其活动实现公开化、透明化,并与属于其它经济成分的企业进行公开竞争。要加快国营企业重组进程,提高其效果,同时鼓励越南企业大力发展,尤其以私营企业作为提高竞争力和经济的自主性的动力。
为了保障成功融入国际社会和有效落实各项自由贸易协定,尤其是《跨太平洋伙伴关系协定》和《越南-欧盟自由贸易协定》,首先,党和国会要作出决议,政府,有关部门和企业也要制定具体的行动计划。要做好信息宣传工作,在思想方面争取支持,在行动中统一起来,努力提升竞争力,推动越南经济快速、可持续发展。
我们正生活在快速发展的时代,世界正迎来第四次工业潮浪,工业化进程日益缩短。如果有着高度决心、努力前进的意志、创新精神和准确的增长战略,走在后面的国家可以跟上和超越发展水平更高的国家,规模较小的新企业可以快速成为大型企业。
参加上述协定,越南还有机会通过扩大生产规模提高经济效果,为打造大型企业创造便利条件,同时实现企业私营化。这也是培养革新、创新精神,鼓励民众创业和提高经济发展水平的机遇。
全党、全国人民、全军以及企业要提高民族自豪感,齐心协力主动争取和发挥好顺利机会,力争战胜融入国际社会中的困难和挑战,增强国家的综合国力,捍卫独立主权、领土完整,力争将越南建设成为胡志明主席所希望的民富、国强、民主、公平、文明、与时俱进、与五大洲各国并肩而行的社会主义国家。
Đọc thêm...

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức-Hành động của chúng ta

14:47 |
Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam, có quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu. Đây là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới – được kỳ vọng trở thành hình mẫu cho phát triển thương mại khu vực và thế giới với yêu cầu cao hơn trong bối cảnh lực lượng sản xuất phát triển rất nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Việc nước ta ký Hiệp định TPP không chỉ là kết quả của quá trình 5 năm kiên trì đàm phán với tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mục tiêu cao nhất. Sâu xa hơn, đây là thành quả của tiến trình 30 năm đổi mới, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng, ngày càng được khẳng định mạnh mẽ và kiến giải sâu sắc qua các Nghị quyết của Đảng. Đây còn là những trải nghiệm rút ra từ thực tiễn hội nhập của nước ta sau khi ký kết và thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các đối tác và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Hội nhập kinh tế quốc tế còn là một nội hàm quan trọng trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, trong các nhiệm kỳ Đại hội X và XI, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chấp thuận đề nghị của Chính phủ về đàm phán tham gia một số Hiệp định Thương mại tự do mới. Đây là những Hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn cam kết trong WTO và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký trước đây. Đặc biệt, TPP và FTA với EU là những Hiệp định toàn diện, cân bằng lợi ích, với những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công… nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng. Các Hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương mại như môi trường và lao động. Với những nội hàm chủ yếu nêu trên, TPP cùng với FTA Việt Nam-EU được gọi là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
TPP là Hiệp định tiếp cận thị trường toàn diện, bảo đảm sự dịch chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ thông qua việc cam kết loại bỏ nhanh thuế xuất khẩu, nhập khẩu và rào cản phi quan thuế; tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử; tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh, người lao động cũng như người tiêu dùng.
TPP sẽ thúc đẩy hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng mới trong thị trường 12 nước thành viên; tạo điều kiện để phát triển mạnh thương mại nội khối; nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người dân; góp phần giải quyết những thách thức trong nền kinh tế đương đại, khuyến khích đổi mới, sáng tạo, phát triển nền kinh tế số, xây dựng chính sách cạnh tranh và quy tắc hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cũng như bảo vệ các quyền cơ bản của người lao động và bảo vệ môi trường. Hiệp định còn có các quy định bảo đảm cơ hội để các nền kinh tế thành viên có trình độ phát triển khác nhau và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể được hưởng lợi; giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội để phát triển. TPP cũng bao gồm các cam kết về hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực và có sự linh hoạt về lộ trình thực thi, phù hợp với sự khác biệt về trình độ phát triển để các bên có khả năng đáp ứng cam kết và tận dụng đầy đủ lợi ích của Hiệp định. Đồng thời, quy định cơ chế giám sát thực thi và chế tài xử lý các vi phạm.
TPP tôn trọng thể chế chính trị của mỗi nước; thừa nhận yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ pháp luật quốc gia, phù hợp với các cam kết quốc tế và không bao gồm các nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh. Hiệp định cũng được kỳ vọng là tạo ra một nền tảng mới cho hội nhập kinh tế khu vực và tạo cơ hội cho các quốc gia khác trên vành đai châu Á-Thái Bình Dương tham gia.
Trong điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp và còn nhiều khó khăn, việc chủ động quyết định tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là TPP với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, nỗ lực vượt qua thách thức, tranh thủ cơ hội để vươn lên phát triển nhanh và bền vững, thể hiện bản lĩnh chính trị, tư duy sắc bén và tầm nhìn thời đại của Đảng và Nhà nước ta. Đây còn là sự khẳng định niềm tin vào ý chí, khả năng và sức mạnh của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
TPP cùng FTA với EU sẽ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức đối với nước ta.
Các Hiệp định này sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là trong thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó EU gồm 28 thành viên với GDP trên 18 nghìn tỷ USD và TPP hiện có 12 thành viên với GDP trên 20 nghìn tỷ USD. Đây là những khu vực có công nghệ nguồn, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư lớn nhất của Việt Nam liên tục trong nhiều năm qua. Nếu tính đến tác động cộng hưởng của các Hiệp định này với các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, cơ hội còn lớn hơn nhiều vì nước ta sẽ có quan hệ thương mại tự do với 55 quốc gia, trong đó có 15 nước thuộc nhóm G20.
Xuất khẩu và đầu tư có vai trò quyết định cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống dân cư, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người và tiêu dùng nội địa của nước ta còn thấp. Tăng tỷ trọng xuất nhập khẩu với các thị trường này cũng làm cho quan hệ thương mại với các nước cân bằng hơn. Những cam kết trong các Hiệp định là những khung khổ, chuẩn mực để góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tham gia các Hiệp định này còn là một bước tiến mới trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại một khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt.
Cùng với những cơ hội thuận lợi, các Hiệp định này cũng đặt ra những khó khăn thách thức không nhỏ. Đó là, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia – đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh. Trước sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp sau thời gian chuyển đổi, tái cơ cấu nếu không vươn lên được có thể phải giải thể hoặc phá sản, một bộ phận người lao động sẽ mất việc làm; khu vực nông nghiệp và nông dân dễ bị tổn thương; khoảng cách giàu nghèo sẽ bị doãng ra nếu chúng ta không thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của tăng trưởng. Thách thức về thực thi cũng rất lớn, từ hoàn thiện hệ thống pháp luật đến đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cán bộ, công chức, chuyên gia kỹ thuật và pháp lý. Nội dung về lao động-công đoàn cũng đặt ra những thách thức và yêu cầu mới trong hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cả hệ thống chính trị của nước ta.
Cần nhận thức sâu sắc rằng, cơ hội thuận lợi tự nó không chuyển thành sức mạnh kinh tế, lợi ích và khả năng cạnh tranh trên thị trường mà phải thông qua sự nỗ lực và hiệu quả hoạt động hướng đích của các chủ thể – Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Khó khăn thách thức sẽ là sức ép không nhỏ nhưng mức độ ảnh hưởng đến đâu phụ thuộc vào năng lực ứng phó của từng chủ thể. Nếu tận dụng tốt cơ hội thuận lợi sẽ đẩy lùi được khó khăn thách thức, tạo ra cơ hội thuận lợi mới lớn hơn; ngược lại, khó khăn thách thức sẽ lấn át, chúng ta sẽ bị thua thiệt và rất khó khắc phục. Điều cần nhấn mạnh là, trong các Hiệp định thương mại tự do, cơ hội luôn đi liền với thách thức và trong thách thức luôn ẩn chứa cơ hội – đây cũng là biện chứng của tiến trình phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tham gia các Hiệp định FTA mới, nhất là các Hiệp định thế hệ mới – TPP và FTA với EU; và trong điều kiện công nghệ thông tin, Internet phát triển bùng nổ, các giao dịch xuyên biên giới ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thương mại, dịch vụ toàn cầu; cùng với những tiến bộ trong vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics, ranh giới giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài gần như bị san phẳng. Hệ quả là, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không còn nguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Nhiều quốc gia chuyển sang mô hình công nghiệp hóa dựa trên sức cạnh tranh, khai thác và tạo lập lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị đó.
Để tận dụng cơ hội thuận lợi, vượt qua khó khăn thách thức, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Trong đó, cần xác định rõ vai trò và hành động của các chủ thể trong thực thi nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định này.
Doanh nghiệp là chủ thể quyết định sức cạnh tranh vi mô, phản ảnh sức mạnh và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp phải dũng cảm chấp nhận cạnh tranh và phải chủ động, sáng tạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ do mình cung ứng, với tư duy không chỉ giới hạn tại thị trường trong nước mà còn vươn ra khu vực và thế giới. Tuy vậy, doanh nghiệp không thể tự mình quyết định được tất cả. Doanh nghiệp phải hành động trong khung khổ thể chế và môi trường kinh doanh xác định. Điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước.
Nhiều nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng định rằng, thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế. Thể chế tốt, bảo đảm nhà nước pháp quyền, quyền dân chủ của người dân và phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại sẽ khơi dậy được cao nhất sức mạnh tổng hợp và các nguồn lực cho sự phát triển. Và như vậy, thể chế có vai trò quyết định đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có một thể chế tốt, chất lượng cao, phải xác định đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển, nhất là ổn định kinh tế vĩ mô; xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch và tổ chức bộ máy quản lý để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng; sử dụng nguồn lực của Nhà nước, các chính sách và công cụ điều tiết để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống người dân; bảo vệ môi trường; bảo đảm các dịch vụ công thiết yếu, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thị trường quyết định việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực. Doanh nghiệp được tự quyết định kinh doanh trên các lĩnh vực mà luật pháp không cấm đồng thời phải đề cao trách nhiệm xã hội và văn hóa kinh doanh. Xã hội – thông qua người dân và các Tổ chức, các Hội nghề nghiệp đại diện cho mình và các chuyên gia, các nhà nghiên cứu độc lập để đóng góp xây dựng, phản biện và giám sát thực thi chính sách, nhằm hạn chế các khiếm khuyết của thị trường và Nhà nước.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn các mối quan hệ trên đây, chúng ta phải khẩn trương tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và cam kết trong các Hiệp định FTA, nhất là các FTA thế hệ mới với tinh thần đổi mới toàn diện, đồng bộ cả kinh tế và chính trị. Tập trung mọi nỗ lực xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và thượng tôn pháp luật. Công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Cán bộ công chức chỉ được làm và phải làm những việc theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục cải cách bảo đảm sự tương thích, đồng bộ giữa luật pháp, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức. Tổ chức trùng lắp, chồng chéo sẽ gây lãng phí nguồn lực và cản trở sự phát triển. Phải dám chấp nhận đổi mới, vượt qua sức ỳ, sự bảo thủ để hoàn thiện hệ thống tổ chức lãnh đạo quản lý, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới.
Đặt việc cải thiện môi trường kinh doanh trong yêu cầu cải cách thể chế. Thể chế tạo ra khung khổ, định ra giới hạn cho cải thiện môi trường kinh doanh. Không thể có môi trường kinh doanh tốt nếu không có thể chế phù hợp. Những tiến bộ trong cải cách thể chế phải được chuyển hóa đầy đủ sang cải thiện môi trường kinh doanh. Điều này không chỉ liên quan đến tổ chức bộ máy mà còn gắn chặt với chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đặc biệt quan tâm đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp lý, các nhà quản trị doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh và phát triển.
Chỉ trên nền tảng đổi mới thể chế quản trị quốc gia phù hợp mới có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả của tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy nhanh áp dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Cũng chỉ trên cơ sở đổi mới thể chế phù hợp mới tạo điều kiện cho quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn và một nền nông nghiệp sạch, có giá trị gia tăng cao, ổn định nguồn cung để có thể tăng nhanh thị phần trên thị trường thế giới. Nếu không, sẽ không tận dụng được cơ hội thuận lợi do TPP, FTA với EU và các FTA mới mang lại.
TPP cũng như FTA với EU yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải công khai, minh bạch hoạt động và cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước đồng thời khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
Để bảo đảm thành công trong hội nhập quốc tế và thực hiện hiệu quả các FTA, đặc biệt là TPP và FTA Việt Nam - EU, trước hết phải có Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chương trình hành động cụ thể của Chính phủ, các cấp các ngành và của cộng đồng doanh nghiệp.  Phải làm tốt công tác thông tin truyền thông, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, thống nhất trong hành động, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững.
Chúng ta đang sống trong một thời đại vận động và phát triển rất nhanh, thế giới đang bước vào làn sóng công nghiệp lần thứ tư, tiến trình công nghiệp hóa ngày càng được rút ngắn. Nếu có quyết tâm cao và ý chí vươn lên mạnh mẽ, tinh thần sáng tạo và chiến lược tăng trưởng đúng đắn, không ngừng nâng cao sức mạnh nội sinh, nước đi sau có thể đuổi kịp và vượt quốc gia đã có trình độ phát triển cao hơn và những doanh nghiệp mới, quy mô nhỏ có thể nhanh chóng trở thành những doanh nghiệp lớn.
Tham gia các Hiệp định này, Việt Nam còn có thêm cơ hội nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ tăng quy mô, tạo điều kiện hình thành những doanh nghiệp lớn đồng thời với xu thế cá thể hóa doanh nghiệp. Đây cũng là cơ hội để nuôi dưỡng tinh thần đổi mới, sáng tạo, khuyến khích phong trào khởi nghiệp của mọi người dân và nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp chúng ta hãy nêu cao niềm tự hào dân tộc, chung sức đồng lòng, xây dựng hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, chủ động khai thác và phát huy tốt nhất cơ hội thuận lợi, nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức trong hội nhập, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./.
Đọc thêm...

《跨太平洋伙伴关系协定》与越南文化身份

14:45 |
越南日益融入国际社会。我们不选择成为一座“孤岛”,也避免不了融入的趋势。我们已加入东盟共同体、世界贸易组织和参加《跨太平洋伙伴关系协定》。在不远的未来,我们将参与世界的所有运动。世界既把越南视为一个平等成员并对越南给予尊重,又同样要求我们的。对我们没有任何优先,我们也不应该等待别人予以优先。仅仅如此,我们才可以强大。
对于越南而言《跨太平洋伙伴关系协定》是一个巨大的转折点,同时也是巨大的挑战。我们除了高兴以外还怀着担忧的心情。参加《跨太平洋伙伴关系协定》各国的经济集团将有权在我们的“舞台”上参加一场公平且不让步的竞赛,而且,我们一直以来几乎只参加自己单方面的游戏。
国家领导人了解对我国经济的巨大挑战,然而也看到未来在进入一个平等竞争时越南迈向强大的新机遇。今起,我们可以初步形容当《跨太平洋伙伴关系协定》启动和加速时越南经济体的“现状”。越南经济的多家企业将会失败或放弃,但是多家企业将渡过困难和挑战而成长。
那时我们才有真正的经济集团,并推动越南社会可持续发展。
全球性的贸易协定不单纯是个贸易协定,因此《跨太平洋伙伴关系协定》不仅是经济领域,而且是感觉上毫无相关的文化领域的挑战与机遇。我们总是认为文化是一个神圣的、无形的、很难经营的东西。从这一角度来看该想法是对的,但从另外一个角度来看又不正确的。我就电影和文学两个领域来讲吧。
关于电影领域,外国电影制作家可以在越南建立摄影棚,他们使用由越南人撰写的剧本和故事,邀请世界著名导演,通过他们本人的电影思维和技术制作有关越南的电影。他们将会为越南人制作出有关越南人、越南历史和生活的具有吸引力的电影。热爱电影的人几乎都知道好莱坞不仅为美国人制作有关美国的电影,而且还给其他国家的人民制作有关该国家的许多好电影。基于越南当前的电影制作思维和技术,我认为越南电影制作家马上就输给外国电影制作家。
外国出版社也是同一个道理的。他们不仅直接向越南推荐世界好书,且邀请越南作家和记者按照他们的要求创作。当然作家和记者还是自由的创作,但也要关心到外国出版社的要求,因为这是出版社的利润及其经营活动,并不是他们为越南作家投资的。他们给越南作者带来的利润高出国内任何一家出版社和电影制作家的利润。
我们很自然的将会提出一个问题:他们这样做有没有违法?答案是他们没有违法。
他们完全在《跨太平洋伙伴关系协定》规定的法律框架内运行,也获得参加《跨太平洋伙伴关系协定》各国的同意。然而,他们的看法、思维、技术及其经营艺术是值得我们学习的东西。我们输给他们是理所当然的。到此时,越南电影制作公司和各家出版社只有唯一两个选择,自己退出或者给那些新老板打工。世界各国早就得出了这一教训。
然而打工并不是可怕的问题。可怕的是在文化被隶属时将面临蜕变危机,尽管这是一种柔和的蜕变。柔和得自己认为还是自己,可是已经是别人的一部分或完全是别人的了。那时,确定自己是谁确实不是简单的事情了。这里并不是确定一个名字或种族、皮肤颜色而是文化身份的确定。
文化身份并不是一个新的术语。自20世纪初,世界文化家和教育家已经就有关人类失去自己的文化身份的危机提出警告,在失去了这最重要的身份时世界将变得紊乱。澳大利亚是个多文化国家之一。该国政府从不主张同化在澳大利亚社会中的其他不同文化。澳大利亚观念“增加了一名印裔诗人,澳大利亚国家增多了一种语言。
增加了一名南斯拉夫裔音乐家,澳大利亚国家增多了一个节奏。
增加了一名华裔画家,澳大利亚国家增多了一种颜色。增加了一名越裔建筑师,澳大利亚国家增多了一个空间等”。这意味着在该国,每个人应有自己的文化身份,使澳大利亚文化更加多样与丰富,而不是融合和撤销它。
可以肯定地说,未来越来越多外国人赴越南工作和生活。因此,我们国家将会共同存在许多不同的文化群。
尽管各文化群没有打算相互同化,但是如若一个文化群发挥其权力,同时让另外一个文化的居民享有利益,其将成为优越的文化。因此,其他文化群将成为薄弱或被融合是容易理解的。这是任何一个文化在同其他文化交流时都要面临的威胁。
当一个文化实体不能保留和推广时,文化王国的边界线将会日益缩小。因为文化没有自然遗传的能力,而要推广和传播并为该文化实体创造当代生活。《跨太平洋伙伴关系协定》突然为文化产品,尤其是《跨太平洋伙伴关系协定》成员的文化产品进军越南市场敞开大门。如果我们不能使越南产品比自己“对手”的产品更加优越,那么“越南人优先使用越南货”的呼吁不会有太大的作用。
此时,我可以说,当今社会年青一代心灵中的民族文化之纯洁或多或少已受到其他文化的影响,实际上该影响力正日益增强。会享受文化之美是人类的巨大“利息”,但是隶属和被另外一个文化同化就是自己本土文化消失的最大危机。当一个国家不能确定自己的文化身份时该国家已不是一个民族,却是一种群居。
20世纪初世界文化家和教育家对文化身份的变色的警告仍保留着其原来的价值。
我们日益深入融入国际社会。我们不允许自己成为一座“孤岛”也避免不了融入的趋势。我们已参加东盟共同体、世界贸易组织和《跨太平洋伙伴关系协定》。在不远的未来,我们将参与世界的所有运动。世界既把越南视为一个平等成员并对越南给予尊重,又同样要求我们的。对我们没有任何优先,我们也不应该等待别人予以的优先。仅仅如此,我们才可以强大。
Đọc thêm...

TPP và tấm căn cước văn hóa Việt

14:44 |
Chúng ta đang càng ngày càng đi sâu vào đời sống cộng đồng thế giới. Chúng ta không cho phép mình trở thành một “ốc đảo” và cũng không cưỡng nổi sự hòa đồng. Chúng ta đã gia nhập Cộng đồng ASEAN, rồi Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Trong tương lai rất gần, chúng ta sẽ ở trong mọi nhịp điệu của thế giới. Thế giới vừa tôn trọng chúng ta như một thành viên ngang bằng vừa đòi hỏi chúng ta phải ngang bằng. Không có ưu tiên nào cho chúng ta và chúng ta cũng không nên chờ đợi sự ưu tiên. Chỉ như vậy, chúng ta mới lớn mạnh.
TPP là một bước ngoặt lớn và cũng là thách thức lớn đối với chúng ta. Trong sự vui mừng có kèm những nỗi lo không nhỏ. Các tập đoàn kinh tế của các nước tham gia TPP sẽ có quyền chơi một cuộc chơi sòng phẳng và ít có nhân nhượng trên chính “sân nhà” của chúng ta, nơi mà lâu nay, hầu như chúng ta chỉ chơi trong cuộc chơi đơn phương của chính mình. Những người lãnh đạo đất nước hiểu rõ những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế của chúng ta, nhưng cũng nhận thấy những cơ hội cho một Việt Nam cường thịnh trong tương lai khi bước vào một cuộc chơi sòng phẳng. Ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể hình dung một phần nào “sức khỏe” của nền kinh tế chúng ta khi cỗ máy TPP khởi động và tăng tốc. Sẽ rất nhiều các “kỵ sĩ” của nền kinh tế chúng ta ngã ngựa hoặc bỏ cuộc, nhưng cũng sẽ có nhiều “kỵ sĩ” vượt qua được những cuộc đấu và trưởng thành. Lúc đó, chúng ta mới có được những tập đoàn kinh tế thật sự và sẽ thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
Các hiệp định thương mại toàn cầu không bao giờ chỉ là thương mại vì vậy TPP không chỉ là thách thức và cơ hội cho riêng lĩnh vực kinh tế, mà cho cả một lĩnh vực khác tưởng rất ít liên quan, đó là văn hóa. Chúng ta thường nghĩ văn hóa là một thứ gì đó thật thiêng liêng và vô hình, thật khó có thể bị hoặc được kinh doanh. Cách nhìn đó đúng ở phía này nhưng lại chưa đúng ở phía khác. Tôi chỉ xin lấy hai thí dụ về điện ảnh và văn học. Về lĩnh vực điện ảnh, các nhà làm phim nước ngoài có thể dựng lên trường quay ở Việt Nam và làm những bộ phim về Việt Nam với kịch bản hay những câu chuyện được người Việt Nam viết ra, được làm ra với tư duy và kỹ thuật điện ảnh của họ và những đạo diễn xuất sắc thế giới mà họ thuê. Họ sẽ làm ra những bộ phim rất hấp dẫn về con người, lịch sử và đời sống Việt Nam cho người xem Việt Nam. Một thực tế mà ai quan tâm đến điện ảnh cũng đều biết là Hô-li-út đâu chỉ làm phim về nước Mỹ cho người Mỹ, mà còn làm quá nhiều phim hay về một câu chuyện của một nước nào đó cho người xem của nước đó. Với tư duy và kỹ nghệ làm phim của Việt Nam hiện nay thì tôi đồ rằng các nhà làm phim nước ngoài sẽ cho những nhà làm phim Việt Nam đo ván chỉ trong hiệp một.
Tương tự như với các nhà xuất bản hay các công ty sách nước ngoài. Họ không chỉ trực tiếp (theo nghĩa đen) mang đến những cuốn sách hay của thế giới mà có thể đặt hàng các nhà văn, nhà báo... Việt Nam viết cho họ. Tất nhiên, các nhà văn viết rất tự do nhưng vẫn theo một cách nào đó của họ bởi đây là bài toán kinh doanh, lợi nhuận chứ không phải đầu tư cho nhà văn chúng ta. Và bởi họ có thể mang lại cho những tác giả Việt Nam lợi nhuận cao hơn bất cứ nhà làm phim, nhà xuất bản nào trong nước từ trước đến nay.
Một câu hỏi rất dễ được đặt ra là: Họ có phạm luật không? Câu trả lời là không. Họ làm tất cả những điều này hoàn toàn theo một hành lang pháp lý mà TPP quy định, với sự nhất trí của những quốc gia tham gia vào hiệp định này. Nhưng cách nhìn của họ, tư duy của họ, kỹ thuật của họ và nghệ thuật kinh doanh của họ là bậc thầy của chúng ta. Và như thế họ thắng chúng ta là lẽ đương nhiên. Đến lúc đó, các hãng phim, các nhà xuất bản, các công ty sách Việt Nam chỉ còn hai con đường: tự rút lui hoặc trở thành người làm thuê cho các ông chủ mới. Bài học này đã có quá nhiều và từ lâu trên thế giới. Nhưng làm thuê cũng chưa phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ là khi văn hóa bị phụ thuộc ở bất cứ hình thức nào, góc độ nào thì nó có nguy cơ biến dạng cho dù là một sự biến dạng vô cùng êm ái. Êm ái tới mức mình vẫn tưởng là mình nhưng thật sự đã là một phần của người khác hoặc hoàn toàn là một người khác. Lúc đó, để xác định mình là ai quả là một khó khăn. Sự xác định ở đây không phải một cái tên gọi hay chủng tộc, mầu da mà là xác định Căn cước văn hóa.
Căn cước văn hóa không phải là một thuật ngữ mới. Ngay từ đầu thế kỷ 20, các nhà văn hóa, các nhà giáo dục thế giới đã cảnh báo nguy cơ con người đánh mất Căn cước văn hóa của mình và khi đã đánh mất tấm căn cước tối quan trọng đó thì thế giới sẽ trở nên rối loạn. Ô-xtrây-li-a là một trong những nước đa văn hóa. Chính phủ nước này không bao giờ có chủ trương đồng hóa những bản sắc văn hóa khác nhau mà các cộng đồng cư dân mang theo sống trong xã hội của họ. Ô-xtrây-li-a quan niệm: “Thêm một nhà thơ gốc Ấn Độ, đất nước Ô-xtrây-li-a thêm một ngôn ngữ. Thêm một nhạc sĩ gốc Nam Tư, đất nước Ô-xtrây-li-a thêm một giai điệu. Thêm một họa sĩ gốc Trung Quốc, đất nước Ô-xtrây-li-a thêm một mầu sắc. Thêm một kiến trúc sư gốc Việt Nam, đất nước Ô-xtrây-li-a thêm một không gian...”. Nghĩa là, ở quốc gia ấy, mỗi con người phải có một Căn cước văn hóa của mình và chỉ CỘNG vào để làm nên tính đa dạng, phong phú của văn hóa cho đất nước ấy chứ không phải HÒA LẪN mà triệt tiêu nó.
Một điều chắc chắn là: trong tương lai Việt Nam sẽ càng ngày càng có nhiều hơn những người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống. Và như vậy, sẽ có những nhóm văn hóa khác nhau cùng tồn tại trên đất nước chúng ta. Cho dù các nhóm văn hóa không có ý đồ đồng hóa lẫn nhau, nhưng nếu một nhóm văn hóa nào đó phát huy được quyền lực của nó cùng với khả năng tạo ra sự hưởng lợi cho những nhóm cư dân của một nền văn hóa khác thì nó sẽ vượt trội. Và như vậy, nguy cơ những nhóm văn hóa khác trở nên mờ nhạt hay bị hòa lẫn là dễ hiểu. Vấn đề này là mối đe dọa với tất cả các nền văn hóa khi giao lưu với những nền văn hóa khác.
Khi những chủ thể của một nền văn hóa không đủ khả năng gìn giữ, bảo tồn và truyền bá thì biên giới của vương quốc văn hóa sẽ càng ngày càng bị thu hẹp. Bởi văn hóa không có tính di truyền tự nhiên mà cần phải được truyền bá, lan tỏa và tạo ra một đời sống đương đại cho chính “cơ thể” văn hóa truyền thống ấy. Với TPP, cánh cửa cho các sản phẩm văn hóa, trước hết là của các thành viên TPP vào Việt Nam bất ngờ được mở ra rất rộng. Lời kêu gọi “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” có thể sẽ không còn nhiều tác dụng nếu chúng ta không làm cho các sản phẩm made in Vietnam quyến rũ hơn, ưu việt hơn các “đối thủ” của mình.
Lúc này, tôi có thể nói rằng: Tính thuần khiết của văn hóa dân tộc trong tâm hồn những thế hệ trẻ hiện nay đã bị pha trộn ít nhiều bởi các nền văn hóa khác và hiện thực cho thấy nó đang tăng lên. Biết cách hưởng thụ những vẻ đẹp văn hóa là một “lợi tức” lớn với con người; nhưng bị phụ thuộc, bị đồng hóa bởi một nền văn hóa khác lại là nguy cơ lớn nhất đánh mất nền văn hóa gốc của mình. Khi một quốc gia không xác định được danh tính văn hóa của mình thì quốc gia đó không phải là một dân tộc mà chỉ là một quần cư. Và lời cảnh báo của các nhà văn hóa, các nhà giáo dục trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 về sự đổi màu tấm Căn cước văn hóa đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Biết cách hưởng thụ những vẻ đẹp văn hóa là một “lợi tức” lớn với con người; nhưng bị phụ thuộc, bị đồng hóa bởi một nền văn hóa khác lại là nguy cơ lớn nhất đánh mất nền văn hóa gốc của mình.
Đọc thêm...

越南一向支持印度向东看政策

23:43 |
225日在河内,越南国家主席张晋创会见了前来辞行拜会的印度驻越南特命全权大使普里特•萨兰(Shrimati Preeti Saran)女士。
张晋创主席强调,越南一向支持印度“向东看”政策,并将以最大努力把两国所签署的合作协议落到实处,不断巩固与发展越印两国友好关系。2015年越印贸易额达50亿美元。双方对2020年双边贸易额达100亿美元的目标持乐观态度。
张晋创主席高度评价正在对越投资的印度塔塔集团等印度企业的投资效率,并强调,越南将为印度各大型集团,尤其是从事汽车制造、软件开发等领域的企业赴越投资提供一切便利。目前,越南已开通飞往印度的直达航线,为促进两国贸易往来及民间交流打下良好基础。
普利特·萨兰大使表示,越共中央总书记阮富仲和国家主席张晋创最近对印度进行访问,为推动越印关系迈向新高度做出积极贡献。越印两国在政治、国防安全领域合作呈现良好的发展态势。今后,双方应进一步推动经贸投资、旅游、石油能源,以及军事训练和民间交流等领域的合作。
Đọc thêm...

Việt Nam ủng hộ chính sách hướng Đông của Ấn Độ

23:43 |
Chiều 25/2, tiếp bà Preeti Saran, Đại sứ Ấn Độ đến chào từ biệt, kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh Việt Nam đánh giá cao và ủng hộ Chính sách hướng Đông của Ấn Độ, đồng thời sẽ nỗ lực tối đa nhằm hiện thực hóa các thỏa thuận đã được ký kết; không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị do các vị lãnh đạo tiền bối đặt nền móng. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng năm 2015, kim ngạch thương mại Việt Nam và Ấn Độ đạt 5 tỷ USD, bởi vậy hai nước có thể tin tưởng mục tiêu sẽ đạt 10 tỷ USD trong năm 2020.
Theo Chủ tịch nước, việc Ấn Độ và Việt Nam đã mở đường bay thẳng sẽ là tiền đề quan trọng thúc đẩy trao đổi hợp tác thương mại cũng như giao lưu nhân dân giữa hai nước.
Đánh giá cao các doanh nghiệp Ấn Độ đã quan tâm đầu tư tại Việt Nam, trong đó có Tập đoàn TATA nổi tiếng của Ấn Độ đã và đang triển dự án đầu tư 2 tỷ USD, Chủ tịch nước khẳng định sẵn sàng tạo điều kiện để các tập đoàn lớn của Ấn Độ, nhất là lĩnh vực có thế mạnh như công nghiệp ô, phần mềm vi tính... tiếp tục mở rộng kinh doanh tại Việt Nam.
Cảm ơn sự hỗ trợ của Ấn Độ đối với Việt Nam trong thời gian qua, Chủ tịch nước mong rằng hai nước sẽ tiếp tục có sự phối hợp chặt chẽ hơn trên các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Bà Đại sứ Preeti Saran đã bày tỏ những tình cảm và ấn tượng tốt đẹp về lãnh đạo đất nước và nhân dân Việt Nam, nơi bà gắn bó trong cả nhiệm kỳ công tác. Bà vui mừng khẳng định các chuyến thăm cấp cao đến Ấn Độ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tạo ra bước chuyển biến lớn, nâng tầm quan hệ ngoại hai nước.
Đại sứ đề nghị Ấn Độ và Việt Nam hiện đã có quan hệ tốt đẹp trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng-an ninh. Tuy nhiên, với sự tin cậy cao độ như hiện nay, hai bên cần đẩy nhanh hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực trao đổi thương mại, đầu tư, du lịch, hợp tác năng lượng dầu khí; đào tạo quốc phòng và giao lưu nhân dân. Đại sứ khẳng định trên cương vị mới sẽ tiếp tục đóng góp, nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước cũng như quan hệ hợp tác Ấn Độ-ASEAN.
Đọc thêm...

东盟一体化进程助推越南旅游业发展

23:39 |
东盟共同体于2015年年底正式建成,开启了东南亚地区新发展阶段。东盟一体化进程将为旅游业发展注入动力。作为越南未来尖端产业之一,旅游业正在不断深度且有效参与东盟各项合作框架。
自九十年代初,越南旅游业已参加了地区各项合作机制。2009年,越南成功举办东盟旅游部长会议和东盟旅游论坛。当年,越南签署《东盟旅游业互认协议》(MRA-TP),为推进东盟旅游人力资源发展和提高地区劳动力流动性创造便利条件。
至今,越南开发了130个旅游产品,积极展开东盟旅游促销战略(2011-2015年),重点开发中国、印度市场,吸引更多游客参与体验式旅游、公务旅游等新兴旅游形式。
越南成功担任2013-2014年任期东盟旅游营销与传媒小组组长。目前,越南是由世界旅游组织提供资助的水路旅游服务质量、协调发展旅游产品和湄公河水路旅游技术支持项目小组副组长。
2012年,越南旅游总局成立了东盟旅游合作小组和制定“研究、评估人力资源与提高东盟旅游业互认协议执行能力”、“旅游业加快东盟经济共同体融入步伐”两个题案。其目的在于对越南旅游业融入地区现状作出评价,从而提高各有关单位对旅游业乃至经济融入地区进程的认识。
据统计,东盟国家游客量占越南国际游客量的20%。泰国、新加坡、马来西亚是越南游客来源国,又是国际游客来越南的重要窗口。
东盟一体化进程助推越南实现“至2020年越南旅游业发展战略和2030年愿景”所提出的要求,有利于推动越南旅游市场与地区和世界旅游市场紧密连接。
东盟一体化进程为旅游业发展注入动力。越南旅游业越来越得到世界的认可,下龙湾、会安、芽庄、岘港、河内等目的地已经树立了旅游品牌,长安、九龙江、河江等目的地知名度日益提高。英国《每日电讯报》评选越南为最值得一去的世界20个旅游目的地之一,下龙湾和山洞窟被GlobalGrasshopper列入全球十大最美旅游目的地名录,河内、岘港跻身亚洲十大最具吸引力旅游目的地等。
陈富强副司长表示,东盟旅游业融入进程有助于推进越南旅游产品多样化,更好开发地区客源。此外,越南旅游产品和服务质量正明显提高,满足东盟区域内和区域外游客的各方面要求。
Đọc thêm...

Hội nhập ASEAN tác động tích cực đến ngành du lịch Việt Nam

23:38 |
Cộng đồng ASEAN đã chính thức hình thành, lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam đã ký vào văn kiện tuyên bố hình thành. Đây được coi là dấu mốc, mở ra thời k​ỳ phát triển mới cho khu vực Đông Nam Á, tạo ra một cộng đồng thực sự gắn kết, hợp tác phát triển vì hòa bình, thịnh vượng chung.
​Việc hội nhập ASEAN sẽ mang lại tác động tích cục tới sự phát triển của du lịch Việt Nam - ngành kinh tế mũi nhọn, chuyên nghiệp trong tương lai.
ASEAN cũng là một trong những khuôn khổ hợp tác mà du lịch Việt Nam tham gia sâu rộng và có hiệu quả nhất.
​Du lịch Việt Nam hội nhập ASEAN từ rất sớm
​ Không phải đến tận năm 2015 du lịch Việt Nam mới chuẩn bị cho việc hội nhập ASEAN mà bắt đầu tìm hiểu và tham gia các cơ chế hợp tác từ cuối những năm 1990, sau khi gia nhập ASEAN (1995).
​Việt Nam từng bước tham gia đầy đủ các hoạt động trong các nhóm/tiểu ban công tác du lịch từ đầu năm 2000 và chủ động hội nhập từ cuối những năm 2000.
​Đối với thị trường, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các cam kết đối với các lĩnh vực khách sạn, dịch vụ khách sạn, phục vụ ăn uống và kinh doanh lữ hành quốc tế. Năm 2009, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Du lịch và Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) - sự kiện lớn nhất trong năm của du lịch ASEAN.
Năm 2009, Việt Nam đã ký Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP), làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN và tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động trong khu vực. Du lịch Việt Nam đã chủ động xây dựng các tài liệu hướng dẫn triển khai MRA-TP (2013).
​Việt Nam đã tham gia xây dựng 130 sản phẩm du lịch chung, kết nối ít nhất 2 quốc gia trong ASEAN theo các nhóm chuyên đề như du lịch thiên nhiên, văn hóa và di sản, cộng đồng, đường biển và đường sông đồng thời tích cực triển khai Chiến lược marketing du lịch ASEAN 2011-2015 với tiêu đề “Đông Nam Á-cảm nhận sự ấm áp.”
​Chiến lược này tập trung vào khai thác khách từ thị trường Trung Quốc và Ấn Độ, khách du lịch trải nghiệm và sáng tạo, khách du lịch khám phá, khách du lịch công vụ, khách du lịch lưu trú dài ngày và người cao tuổi, khách trong nội vùng ASEAN.
​Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Trưởng nhóm Marketing và Truyền thông du lịch ASEAN (2013-2014), hiện đang là Phó Trưởng nhóm Chất lượng dịch vụ du lịch, điều phối phát triển sản phẩm du lịch đường sông và Dự án hỗ trợ kỹ thuật phát triển du lịch đường sông khu vực sông Mê Kông do Tổ chức du lịch thế giới UNWTO hỗ trợ ASEAN và đóng vai trò điều phối một số dự án khác...
​Hội nhập Cộng đồng ASEAN là bước ngo ặ t lớn với các nước thành viên, mang lại cơ hội cũng như thách thức cho du lịch mỗi nước. Để không bị động, ngay từ năm 2012, Tổng cục Du lịch đã thành lập Nhóm hợp tác du lịch ASEAN để tăng cường triển khai và phối hợp hoạt động hợp tác trong Tổng cục Du lịch và các cơ quan liên quan.
​Tổng cục Du lịch cũng đã triển khai 2 đề án “Nghiên cứu, đánh giá nguồn nhân lực và nâng cao năng lực triển khai thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch ASEAN” và “Tăng cường hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN trong lĩnh vực Du lịch” nhằm phân tích, đánh giá thực trạng hội nhập du lịch của Việt Nam, thông qua đó nâng cao nhận thức của các chủ thể liên quan đến quá trình hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập trong lĩnh vực du lịch nói riêng.
​Hội nhập nâng cao uy tín, thương hiệu du lịch Việt Nam
​Theo nghiên cứu của Tổng cục Du lịch: ASEAN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với d u lịch Việt Nam. Với dân số hơn 500 triệu dân, các thị trường nguồn du lịch thuộc khu vực ASEAN đóng góp khoảng 20% tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Một số nước ASEAN như Thái Lan, Singapore, Malaysia vừa là thị trường nguồn, vừa là cửa ngõ quan trọng đưa khách du lịch quốc tế.
​Quá trình hợp tác đã góp phần nâng cao uy tín của du lịch Việt Nam trong khu vực; tiếp cận nhiều thông tin và bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch, hỗ trợ tích cực của các nước có ngành d u lịch phát triển hơn như Thái Lan, Malaysia, Singapore...
​Hội nhập ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện yêu cầu “gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới” như Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đề ra. ​ Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng, du lịch nước ta đã xuất hiện trên bản đồ du lịch thế giới. Một số điểm đến nổi bật đã xác lập được thương hiệu trên thị trường quốc tế, tiêu biểu là Hạ Long, Hội An, Nha Trang, Đà Nẵng, Sa Pa, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Một số điểm đến du lịch ngày càng được biết đến nhiều hơn như Quần thể danh thắng Tràng An, Đồng bằng sông Cử u Long, Hà Giang, Phú Quốc...
Ngoài ra, các nhóm sản phẩm du lịch chuyên đề đã hình thành như du lịch golf, du lịch đám cưới và tuần trăng mật, du lịch khám phá, mạo hiểm, du lịch đường sông, du lịch tàu biển, du lịch MICE.
​Rất nhiều điểm đến và thương hiệu của du lịch Việt Nam được các tạp chí và tổ chức quốc tế uy tín bình chọn và trao tặng danh hiệu cao quý, tiêu biểu . Trong đó, Việt Nam được Tạp chí Telegraph bình chọn là một trong 20 điểm đến đáng đi du lịch nhất thế giới năm 2015; vịnh Hạ Long và hang Sơn Đoòng được Tạp chí Global Grasshopper bình chọn trong nhóm 10 địa danh đẹp ấn tượng nhất hành tinh; Hà Nội, Đà Nẵng vào top 10 điểm đến hấp dẫn châu Á...
​Việc hội nhập sâu rộng trong ASEAN sẽ tiếp tục tác động tích cực với du lịch Việt Nam. Đầu tiên là hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến phát triển du lịch và giải pháp ưu tiên phát triển du lịch của Chính phủ, các chính sách nới lỏng về thị thực nhập cảnh và tạo điều kiện thuận lợi đi lại trong ASEAN. Tiếp theo là chính sách tạo môi trường đầu tư tại Việt Nam minh bạch, thông thoáng hơn; phối hợp liên ngành đã được cải thiện đáng kể và cơ bản đáp ứng được yêu cầu của hội nhập khu vực ASEAN.
Hội nhập về sản phẩm du lịch trong ASEAN góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt Nam; tranh thủ được nguồn khách nối tour trong khu vực. Từ đó, tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch khu vực ASEAN, khả năng kết nối khách giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và ngược lại.
Mặt khác, chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch của Việt Nam đã tăng lên rõ rệt, đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch trong và ngoài khu vực ASEAN về nhiều mặt, đặc biệt là đối với thị trường chất lượng cao, tập trung ở các trung tâm du lịch lớn.
Việt Nam cũng tranh thủ được hiệu quả xúc tiến quảng bá du lịch trong khu vực để thu hút khách quốc tế. Triển khai Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) là cơ hội để du lịch nước ta nâng cao chất lượng nhân lực du lịch, đủ điều kiện dịch chuyển trong ASEAN...
​Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam cũng được nâng lên trên cơ sở liên kết phát triển sản phẩm du lịch theo mô hình lữ hành-hàng không-khách sạn. Các loại hình doanh nghiệp khác tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch như vận chuyển nhà hàng cung cấp dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí... ngày một gia tăng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu kết nối giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ASEAN.
​Việc chính thức gia nhập Cộng đồng ASEAN mới chỉ là bước tiếp theo của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng mà ngành du lịch tham gia. Cơ hội và thách thức luôn đan xen đòi hỏi toàn ngành phải tận dụng được các cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức để phát triển với tốc độ cao và tránh được nguy cơ tụt hậu, nhất là so với các nước có ngành du lịch phát triển trong khu vực./.
Đọc thêm...

Hot (焦点)