日本军事介入南海问题的动机(第二期)

08:13 |
其三,以“确保海上航行自由”为借口,配合美国亚太战略,将南海作为活动舞台,推动实现其“正常国家”的既定目标。这是日本谋求军事介入南海问题的实质,也是长期以来日本介入南海问题的根本动力。成为“正常国家”一直是日本梦寐以求的国家战略目标,它的本质是摆脱战后体制。在现有条件不足的情势下,日本采取目标分割的方式,一步步制造“正常国家”的既成事实,而“正常国家”的重要标志就是在军事上实现“自由向海外派兵”的能力。谋求派遣自卫队介入南海问题也因此成为日本实现“正常国家”目标的重要支点。日本政府曾在公开场合多次表示,“南海形势事关日本的安全保障,日本有必要确保南海海上航行自由”。然而,南海地区的海上航行自由并没有被打破过,也没有影响到日本所谓“海上生命线”的安全和其能源进口。为了打开“自由向海外派兵”的“潘多拉盒子”,造成自卫队“正常”走向全球的既成事实,自美国前任总统奥巴马宣布实施“亚太再平衡”战略后,日本就迫不及待地充当美国战略部署的“马前卒”,走在美国挤压中国战略空间的最前线,成为美国盟友中最反对中国的国家。与此同时,以“确保海上航行自由”为借口,通过在国内外长期渲染“中国威胁论”,为军事介入南海问题做足了舆论准备。我们应当看到,日本国内民族主义的勃兴和右倾化的加速,与日本苦苦追求的“正常国家”目标在日本的对外行为中逐渐找到了统一点。这既是日本政府长期对国内舆论进行错误引导的结果,也是日本不断介入南海问题的国内动力。
  目前来看,如果考虑到各种影响因素的叠加,日本在实现自身战略目标、配合美国战略部署与其国内政治形势、舆论压力之间的博弈仍将持续,尤其是在安倍内阁支持率不断探底的情况下,日本短期内是否派遣自卫队公然进行所谓“南海巡航”仍不明朗。至于近期在南海地区进行的联合巡航训练,日本政府并未公开承认这一行动是“航行自由行动”。当前,我们无法排除日本参加美军所谓南海“航行自由行动”的可能性,同时也应考虑到,日本亦有可能采取的方式是其军舰在前往印度洋执行任务的途中或返回日本的途中,途经中国南海有关岛礁邻近海域甚或12海里内,借此行为公开对外宣示巡航。
  对此,中国势必采取强烈反制措施。针对日本谋求军事介入南海问题,中国必须充分认识到,日本自卫队并不仅仅是像其宣传的那样“专守防卫”,而是早已活跃于东海、南海甚至印度洋。按照日本国内学者的认识,自卫队即便在南海采取“巡逻”行动,也属正常,并不需要依据“新安保法”的实施。日本的根本战略意图始终在于摆脱战后体制以成为“正常国家”,介入南海问题只是其实现“正常国家”目标的一步棋。而一旦日本正式派遣自卫队进行“南海巡航”并予以公开,势必破坏南海地区正在形成的稳定局面,也将威胁到中国国家安全利益。中国应该充分考虑到这一点,不仅要积极谋划应对日本可能军事介入南海问题的有效对策,而且要未雨绸缪,及早思考如何应对日本的“正常国家化”、如何与可能实现“正常国家”目标的日本打交道。这不仅影响到中日关系的未来和亚太地区的和平稳定,某种程度上也将影响中国的和平发展。
Đọc thêm...

Mục đích Nhật Bản can dự vào vấn đề Biển Đông (phần 2)

08:11 |
Quan điểm của Nhật Bản và những biện pháp có thể thực hiện đối với Biển Đông
Bất chấp thực tế là gần 80% nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản, có ý nghĩa then chốt đối với sự sống còn của nước này, đi qua Biển Đông, vùng biển đã nằm ngoài việc lập kế hoạch hoạt động của JSDF trong nhiều thập kỷ. Nhìn chung, nhiều người Nhật Bản đã nhận thấy thoái mái hơn trong việc kiên trì với cách diễn giải thiếu thực tế về hiến pháp hòa bình hơn là đối mặt với khả năng rủi ro quân sự trong thế giới thực. Hơn nữa, trong nhiều năm, sự đối đầu phi quân sự kéo dài hàng thập kỷ đối với hòn đảo Senkaku ở biển Hoa Đông đã thu hút sự chú ý từ chính phủ, các phương tiện truyền thông và dân thường Nhật Bản nhiều hơn so với tình hình ở Biển Đông.
Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông toàn cầu đưa tin về các hoạt động cải tạo đất đơn phương của Trung Quốc ở Trường Sa đã khiến Nhật Bản tỏ rõ thái độ của mình. Chính phủ Nhật Bản đã nhanh chóng xác định các hành động của Trung Quốc là vi phạm UNCLOS và coi chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là một nỗ lực nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực. Nhật Bản cũng ủng hộ lập trường của Mỹ đối với các hành động phiêu lưu mạo hiểm quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông và các hoạt động thực hiện quyền tự do hàng hải của Mỹ. Bất chấp những giới hạn quân sự của nước này, Nhật Bản có thể tiến hành một số hành động hỗ trợ sự ổn định ở Biển Đông.
Hỗ trợ việc tăng cường khả năng khu vực. Sự bành trướng đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông đang gây ra những lo ngại nghiêm trọng và những bất đồng với các nước ven biển, kể cả các nước không có tuyên bố chủ quyền như Singapore và Indonesia. Tuy nhiên, nhiều lực lượng quân sự trong số các nước này hết sức hạn chế và không theo kịp những khả năng của Trung Quốc. Bởi vậy, rõ ràng là Nhật Bản có thể giúp cải thiện những khả năng biển của các nước này, với ưu tiên cao nhất là xây dựng thúc đẩy năng lực hoạt động trên biển cho các quốc gia này, trong đó tăng cường năng lực hải quân và bảo vệ bờ biển đang là ưu tiên cao nhất. Nhật Bản đã khởi xướng, và năm 2015 đã bắt đầu thực hiện, một số chương trình xây dựng khả năng cho các quốc gia ven biển ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, hai nước từ lâu đã chịu sức ép chính trị và quân sự từ Trung Quốc. Các hoạt động bao gồm chuyển giao các tàu tuần tra phi quân sự và đào tạo nhân viên thực thi pháp luật biển. Nội dung của các chương trình xây dựng khả năng này sẽ mở rộng nhanh chóng cả về chất lượng và số lượng.
Thách thức khác là sự hạn chế rất lớn về năng lực trên không – trên biển của các nước Đông Nam Á ven biển. Một ý tưởng nhằm giúp cải thiện vấn đề này sẽ là xây dựng một mạng lưới hoạt động chung trong khu vực nhờ đó các bên tham gia ven biển cung cấp thông tin trên không-trên biển, Nhật Bản và Mỹ cung cấp thông tin vệ tinh và thông tin từ bên ngoài. Tất cả các quốc gia tham gia sẽ lấy thông tin miễn phí từ mạng lưới này. Nếu hoàn thành, đây có thể trở thành một công cụ chủ chốt nhằm cải thiện khả năng hoạt động  khu vực của các quốc gia tham gia và có thể khuyến khích họ có những hành động hợp tác và phối hợp chống lại hành vi gây hấn của bất kỳ quốc gia nào. Để giúp phát triển những khả năng này, Nhật Bản và Mỹ cần phải cùng nhau hỗ trợ việc xây dựng năng lực của các nước Đông Nam Á ven biển.
Ủng hộ chiến lược của Mỹ và duy trì sự hiện diện của Mỹ. Điều rõ ràng là Mỹ là quốc gia duy nhất có thể đem lại sự răn đe hiệu quả chống lại Trung Quốc, do khả năng của nước này trong việc phá hủy cơ sở hạ tầng chủ yếu và các cơ sở quân sự trong một kịch bản chiến tranh. Như được thảo luận ở trên, các căn cứ chính của Trung Quốc trên Biển Đông ở Tam Á, đảo Woody (Phú Lâm) và Fiery Cross (Đá Chữ Thập) cũng như có thể là bãi cạn Scarborough trong tương lai, có ý nghĩa chiến lược rất lớn; tuy nhiên, chúng cũng có những khả năng dễ bị tổn thương, đặc biệt từ tên lửa hành trình có độ chính xác cao. Do tất cả những căn cứ then chốt này đều có thể bị tấn công từ trên biển và trên không, chúng có thể là mục tiêu của các khả năng tấn công tầm xa từ các lực lượng của Mỹ.
Washington cần phải gửi đi một tín hiệu rõ ràng đến Bắc Kinh rằng Mỹ không khoan dung cho các hành động đơn phương và hiếu chiến vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế đã được thiết lập. Điều cũng quan trọng là cần phát đi tín hiệu rằng để ngăn chặn những hành động phiêu lưu mạo hiểm và sự khiêu khích của Trung Quốc, không chỉ ở Biển Đông mà còn bên trong toàn bộ khu vực châu Á, Mỹ quyết tâm sử dụng khả năng quân sự của mình khi cần thiết. Theo quan điểm của Nhật Bản, kiểu hành động này của Mỹ sẽ có đóng góp thực sự cho sự ổn định khu vực, điều mà các nước ven biển châu Á đã chờ đợi từ lâu.
Nhật Bản, với tư cách là đối tác đồng minh chủ chốt của Mỹ, cần phải hỗ trợ các lực lượng Mỹ hoạt động trong khu vực vì mục đích này. Để làm như vậy, JSDF cần phải gánh vác trách nhiệm nhiều hơn đối với các hoạt động trên không và trên biển ở Tây Thái Bình Dương và biển Hoa Đông. Việc gia tăng các sứ mệnh của JSDF sẽ tạo điều kiện cho các lực lượng Mỹ có được tư thế triển khai linh hoạt hơn ở các khu vực khác, phụ thuộc vào những đòi hỏi chiến lược của Mỹ, chứ không phải tiếp tục bị ràng buộc với các hoạt động trong các vùng biển của Nhật Bản. Đặc biệt, những vai trò được mở rộng đối với Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) ở các vùng biển của Nhật Bản sẽ giảm bớt các nhiệm vụ cũ của Hải quân Mỹ và tăng cường hơn nữa khả năng đối với các hoạt động chiến tranh chống tàu ngầm ở Biển Đông. Tư thế tác chiến mới của JSDF cũng sẽ cải thiện sự linh hoạt của các lực lượng Mỹ trong việc duy trì một sự hiện diện không bị gián đoạn trong khu vực.
Hỗ trợ các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ. Gần đây, Hải quân và Không quân Mỹ đã tiến hành các hoạt động tự do hàng hải gần các đảo nhân tạo của Trung Quốc bằng việc điều tàu USS Lassen đi vào khu vực 12 hải lý của một trong những hòn đảo này và sau đó là máy bay ném bom B-52 bay qua. Theo truyền thông đưa tin, Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc đã tiến hành các hoạt động tự do hàng hải của riêng mình bằng máy bay P-3 Orion vào giữa tháng 12.
Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động này. Là một quốc gia biển và đồng minh thân cận của Mỹ, Nhật Bản cần phải có hành động rõ ràng để hỗ trợ hoạt động tự do hàng hải ngay cơ hội đầu tiên. Việc điều máy bay và tàu của JSDF đến khu vực vì mục đích này được coi là phù hợp với hiến pháp của Nhật Bản. Cách tốt nhất để Nhật Bản thực hiện hoạt động này là điều các tàu của JMSDF, theo lộ trình sẽ được triển khai đến Vịnh Aden phục vụ cho các hoạt động chống cướp biển, đi qua các vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền mà theo luật quốc tế là các vùng biển quốc tế. Bởi vậy, Nhật Bản có thể thực hiện các hoạt động tự do hàng hải một cách tự nhiên và bình tĩnh và bày tỏ rõ ràng quan điểm của mình dựa trên UNCLOS.
Ngăn chặn Trung Quốc xây dựng đảo ở bãi cạn Scarborough. Nhằm kiểm soát có hiệu quả khu vực nằm trong “đường 9 đoạn”, Trung Quốc có khả năng cần sử dụng các hòn đảo nhân tạo vì mục đích chiến lược và có thể tìm cách cải tạo bãi cạn Scarborough. Nếu các cơ sở quân sự trên bãi cạn này được hoàn thành, cán cân quyền lực chiến lược ở Biển Đông sẽ bị thay đổi đáng kể tới mức độ không thể hồi phục đối với Nhật Bản và Mỹ. Tác động tiêu cực được tạo ra bởi thách thức mới này cần phải được cả Nhật Bản và Mỹ nhận biết và xem xét lại một cách nghiêm túc. Bởi vậy, điều có tầm quan trọng chiến lược là  huy động tất cả các công cụ chính trị và ngoại giao có thể có cho sự hợp tác quốc tế nhằm ngăn chặn những nỗ lực trong tương lai của Trung Quốc nhằm xây dựng một hòn đảo nhân tạo ở bãi cạn Scarborough.
Thúc đẩy hơn nữa các cuộc diễn tập song phương và đa phương với quân đội các nước Đông Nam Á ven biển. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản đã bắt đầu có các cuộc trao đổi quân sự với các quốc gia của khu vực Biển Đông, và nhìn chung các mối quan hệ của Nhật Bản với các nước này rất tốt. Các quốc gia này bao gồm Úc, Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Philippines và Việt Nam. JMSDF cũng đã và đang tiến hành các cuộc diễn tập song phương và đa phương với hải quân các nước ở Biển Đông  rong hai thập kỷ qua. Những cuộc diễn tập này đã cải thiện một cách nhanh chóng và thực chất các mối quan hệ giữa hải quân hai nước và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và phối hợp hoạt động, điều để cho Bắc Kinh thấy rằng Nhật Bản và Mỹ sẵn sàng đáp trả bất kỳ hành động phiêu lưu mạo hiểm nào của Trung Quốc trong khu vực. Điều cũng quan trọng đối với Nhật Bản và Hạm đội 7 của Mỹ là tiến hành các cuộc diễn tập tiến hành chiến tranh song phương hỗn hợp ở Biển Đông, phòng xa để bảo vệ những yếu tố tình báo của chính mình.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là các chuyến cập cảng mang tính chiến lược có một vai trò quan trọng ở Biển Đông. Một hiệp định gần đây giữa Nhật Bản và Việt Nam cho phép tàu của JMSDF cập cảng Cam Ranh, theo truyền thống là một điểm chiến lược để kiểm soát toàn bộ Biển Đông, là một diễn biến đáng chú ý. Khả năng rất lớn là Hải quân Mỹ sẽ nhanh chóng tham gia với JMSDF, và điều này sẽ tăng cường sự hiện diện của Hải quân Mỹ ở Biển Đông. Có nhiều cơ hội khác cho các chuyến thăm cảng chiến lược của Hải quân Nhật Bản và Hải quân Mỹ và nhiều vai trò mà cả hai nước có thể đảm nhận trong việc trợ giúp sự ổn định khu vực.
Đọc thêm...

日本军事介入南海问题的动机(第一期)

08:08 |
  20175月至6月,日本海上自卫队多次与美国海军在南海地区进行联合巡航训练,并于69日至10日,在南海地区参加日美澳加四国联合巡航训练。这些行动不仅说明南海已被日美同盟纳入其行动范围之中,而且也表明日本在为参加所谓南海“航行自由行动”作准备。
  从当前南海问题相对稳定的态势和中日关系的适度回暖等因素来看,军事介入南海问题并不能给日本带来直接而显著的战略收益,反而可能使日本陷入与中国对立的境地,落得一个破坏南海和平稳定的恶名,尤其是在日本政府希望改变自身邻国外交被动局面的背景下。那么,日本又为何要谋求以所谓自卫队参与南海“航行自由”的方式深度介入与己并不相干的南海问题?笔者认为,至少包括以下几点动机。
  其一,破坏乃至恶化中国周边安全环境,企图以南海问题牵制中国和平发展。改革开放近40年来,中国经济取得了举世瞩目的成绩,国际地位和国际影响力显著提升,中国正逐步从地区性大国迈向全球性大国。特别是2010年,中国经济总量超过日本,跃居世界第二位。中国如此迅速地发展,日本感到不安。自此之后,由于中日撞船事件和日本政府非法“国有化”钓鱼岛,中日关系急转直下,导致两国在东海问题上均面临相当的战略压力和舆论压力,这也成为日本将所谓防卫重心转向西南方向的不二借口。为了缓解自身在钓鱼岛的压力,更是为了分散中国在东海方向上的战略聚力,日本不惜以破坏中日关系为代价介入南海问题,向菲律宾等国出口武器装备,开展联合军事演习,鼓动它们与中国进行对抗。更甚的是,日本谋求军事介入南海问题,意欲派遣自卫队“巡逻”南海,使南海局势趋于复杂化,其部分战略意图就在于破坏中国外部战略环境,牵制中国发展。
  其二,企图提升在南海地区的存在感,增强自身在地区安全事务中的影响力。这是日本介入南海问题的重要动力,也是它介入南海问题的战略目标。二战结束后,通过商品输出和对外投资等方式,日本重新加强了与东南亚国家的经济联系,并长期保持对东南亚国家的较强影响力。自20世纪50年代中期日本经济步入高速增长阶段后,日本逐渐显露出对东南亚地区乃至整个东亚地区的主导意识,并企图通过区域整合的方式掌握主导权。特别是在20世纪80年代提出“政治大国”目标后,日本对东南亚地区的注意力逐渐转移到政治和战略的谋划上。由于80年代末90年代初泡沫经济的崩溃,日本经济陷入长期停滞阶段,其在东南亚地区展开战略经营的势头越来越缺乏有力支撑。与此形成鲜明对照的是,中国与东南亚国家的关系朝着越来越有利于地区和平与稳定的方向发展,中国在东南亚地区的整体影响力不断增强。特别是党的十八大以来,习近平总书记提出了一系列关于国际关系和中国外交的新理念新思想新战略,走向世界舞台中央的中国越来越受到全世界的广泛关注。然而,在日本看来,中国影响力的上升挑战了日本在东亚地区原有的优势地位,南海问题若没有日本的介入,势必冲淡日本在该地区的存在感,其影响力也将随之东流。因此,日本通过联合军演、武器出口、打击海盗、误导舆论等方式,刻意加强自身在南海地区的军事存在,强化对东南亚国家的影响力。不难看出,介入地区乃至国际安全事务,已成为日本对外谋求影响力的重要方式。
Đọc thêm...

Mục đích Nhật Bản can dự vào vấn đề Biển Đông (phần 1)

08:06 |
Các hành động quyết đoán và cậy quyền của Trung Quốc ở các vùng biển châu Á – đặc biệt là ở biển Hoa Đông và Biển Đông – đang gây ra những lo ngại nghiêm trọng về an ninh trong cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, lập trường không giống ai và đơn phương của Trung Quốc đối với các vấn đề về biển, mà họ khẳng định được hỗ trợ bởi cách diễn giải rộng lớn hơn, và đôi khi tự cho mình là trung tâm của nước này về Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và các nguyên tắc quốc tế được thiết lập khác, đã làm cho các nước khu vực và các bên quyền lợi khác như Mỹ, khó xử. Đồng thời, những tranh chấp ở Biển Đông có nguy cơ leo thang thành những xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc.
Bởi vậy, đối với Nhật Bản, Biển Đông không đơn giản chỉ là liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ven biển, nó còn đặt ra một vấn đề lớn có thể gây ra một cuộc xung đột quân sự trực tiếp, làm xói mòn sự ổn định hiện tại và có khả năng đưa khu vực và thế giới rơi vào tình trạng hỗn loạn chưa từng có. Bài phân tích này nghiên cứu nhận thức và những lợi ích của Nhật Bản ở Biển Đông. Những lo ngại chính của Nhật Bản ở khu vực này được nhân lên gấp đôi: Thứ nhất, các hoạt động cải tạo đảo và tăng cường quân sự của Trung Quốc cuối cùng có thể đem lại cho nước này sự kiểm soát chiến lược các tuyến đường giao thông trên biển. Thứ hai, khả năng leo thang căng thẳng tiềm tàng giữa Trung Quốc và Mỹ, đồng minh chủ chốt của Nhật Bản, gây ra một mối đe dọa đối với sự ổn định khu vực. Bài phân tích này sau đó nghiên cứu chính sách an ninh của Nhật Bản và đánh giá xem Nhật Bản có thể có những hành động gì để góp phần ổn định tình hình.
Khái quát về những lo ngại chính của Nhật Bản
Các hoạt động cải tạo và xây dựng đảo của Trung Quốc. Kéo dài khoảng 1.750 dặm từ Kênh Bashi/Eo biển Luzon đến Singapore và 1.250 dặm từ Hong Kong đến Brunei, Biển Đông lớn hơn Nhật Bản khoảng 9,5 lần và bao gồm khoảng 200 đảo, bãi đá, bãi cạn và bãi ngầm. Có một số quần đảo nổi bật, chẳng hạn như quần đảo Paracel (Hoàng Sa) và quần đảo Spratly (Trường Sa), và mỗi quần đảo có ý nghĩa chiến lược riêng của nó.
Kể từ năm 2013, Trung Quốc đã bắt đầu cải tạo ở 7 bãi đá và tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo. Fiery Cross Reef (Đá Chữ Thập) dường như là điểm cốt lõi bao gồm các hoạt động quân sự đầy đủ, đáng chú ý nhất là một đường băng và một cảng nước sâu. Đá Subi Reef (Đá Xubi) và Đá Mischief Reef (Đá Vành Khăn), khoảng 125 dặm mỗi đảo, là những hòn đảo nhân tạo khác có đường băng và các cơ sở cảng biển. Nhật Bản lo sợ rằng 4 hòn đảo nhân đạo khác có các cơ sở hỗ trợ khác nhau có thể có chức năng như là những tiền đồn bảo vệ 3 hòn đảo chính có sân bay và các khu vực giám sát trên không, điều có thể tạo điều kiện cho một vùng nhận dạng phòng không tiềm tàng của Trung Quốc ở Biển Đông. Những hòn đảo nhân tạo này, khi được hoàn thiện đầy đủ, sẽ đem lại cho Trung Quốc những chỗ đứng vững chắc ở quần đảo Trường Sa để kiểm soát hầu hết các tuyến đường giao thông trên biển và để theo dõi các hoạt động hàng hải và hàng không của nước ngoài. Hơn nữa, nếu Trung Quốc trong tương lai có lúc nào đó xây dựng thành công một đảo nhân tạo ở bãi cạn Scarborough, sẽ có một tam giác chiến lược nối đảo Woody (Phú Lâm), quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough mà sẽ bao gồm hầu hết Biển Đông. Ảnh hưởng của tam giác chiến lược này là vô cùng lớn đối với việc lập kế hoạch chiến lược của Mỹ và Nhật Bản và có thể là yếu tố làm thay đổi cuộc chơi trong các quan hệ nước lớn của khu vực.
Với tư cách là một cường quốc toàn cầu lớn, Trung Quốc có mục tiêu quốc gia là trở thành một cường quốc hạt nhân có thể so sánh với Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc thiếu máy bay ném bom tầm xa và kết quả là, đương nhiên phụ thuộc vào các lực lượng tên lửa chiến lược của nước này, trong đó có những khả năng hạt nhân chiến lược trên biển, như một thành phần chính. Trong bối cảnh này, Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) phải duy trì một lực lượng tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) hùng mạnh và bảo vệ lực lượng này trước những khả năng chiến tranh chống tàu ngầm của các kẻ thù tiềm tàng – đặc biệt là lực lượng tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) của Hải quân Mỹ. PLAN đã hoàn thành một căn cứ hải quân mới ở Tam Á trên đảo Hải Nam, căn cứ lý tưởng cho việc triển khai lực lượng SSBN của nước này để tuần tra ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Nếu quy mô của lực lượng SSBN của Trung Quốc tăng lên hơn 8 tàu ngầm, PLAN có thể thiết lập hai hoặc nhiều hơn khu vực tuần tra bằng tàu ngầm ở Ấn Độ Dương hoặc Tây Thái Bình Dương. Hai điểm công kích này cùng nhau có thể đem lại tầm với hạt nhân đến Mỹ, phủ bóng đen lên chiến lược hạt nhân và tư thế phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ.
Tuy nhiên, Hải Nam đặt ra một vấn đề nghiêm trọng đối với PLAN: căn cứ này là mở ra Biển Đông, và bởi vậy cũng mở đối với các lực lượng chiến tranh chống tàu ngầm tiên tiến của Hải quân Mỹ. Bởi vậy, đối với PLAN, bảo vệ SSBN ở Biển Đông sẽ là một nhiệm vụ then chốt khác. Quyết tâm của Trung Quốc giành độc quyền phía Nam Biển Đông xung quanh quần đảo Trường Sa là một tín hiệu rõ ràng cho thấy PLAN đang bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình nhằm sử dụng quyền kiểm soát trên biển lớn hơn để bảo vệ SSBN trong khu vực.
Mỹ và quyền tự do hàng hải. Theo truyền thống, Mỹ không ủng hộ bất kỳ nước cụ thể nào trong một tranh chấp lãnh thổ, và lập trường của Chính phủ Mỹ đối với các tranh chấp ở Biển Đông cũng là trung lập, thậm chí đối với cả Trung Quốc. Tuy nhiên, đồng thời Mỹ đã nhiều lần khẳng định quyền tự do hàng hải là một trong những lợi ích quốc gia then chốt của nước này.
Có hai cách giải thích về chính sách này. Một cách giải thích chấp nhận nguyên tắc đơn giản rằng tự do hàng hải đảm bảo cho hoạt động tự do trên biển của bất kỳ bên nào theo UNCLOS. Cách giải thích thứ hai quan trọng hơn cách giải thích thứ nhất nhưng khó hiểu hơn. Theo quan điểm này, bởi quyền tự do hàng hải là một lợi ích quốc gia của Mỹ, nếu bất kỳ xung đột nào Biển Đông được coi là gây cản trở đến việc sử dụng biển tự do và an toàn, thì Mỹ, thậm chí có thể không phải là một bên tranh chấp, có thể diễn giải xung đột này là sự xâm phạm lợi ích quốc gia. Bởi vậy, Mỹ duy trì quyền can thiệp vào bất kỳ xung đột biển nào ở Biển Đông nếu xung đột đó được diễn giải là vi phạm nguyên tắc tự do hàng hải. Bởi vậy, cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn, để bảo vệ những lợi ích quốc gia, Mỹ có thể can thiệp vào xung đột khu vực ở Biển Đông.
Đọc thêm...

美国《国家安全战略报告》 的内涵与影响(第五期)

07:59 |
在具体的作法方面,报告建议在政治方面美国将加强与共享尊重主权、公平及互惠贸易理念的盟邦及新伙伴的合作关系,将强调对于自由航行及依据国际法和平解决领土及海洋争端的立场,对于北韩的政策则是达成完全、可验证及不可逆转的无核化结果。在经济方面则是鼓励各国合作以维持自由及开放的航行、透明的基础建设融资、不被干涉的贸易、及和平解决纷争。美国将在公平及互惠的原则上与他国签订双边经贸协议,将寻求美国的出口产品能获得公平及可靠的市场、与致力于自由市场及免于他国主权干涉的各国建立合作的机制、推动高质量的基础建设。在军事及安全方面,美国将维持前沿部署以吓阻及击败任何敌人。将强化长期存在的军事合作关系及与盟邦及伙伴国发展强大的防卫网络,例如美国将与日本及南韩的飞弹防御提升为具有区域防御的功能,将以优势的武力回应北韩的侵略及强化促使朝鲜半岛非核化的各种选项。美国将增进与东南亚的伙伴国在执法、国防及情报方面的合作,以对付日益升高的恐怖主义威胁。推动菲律宾、新加坡、越南、印尼及马来西亚成为美国的海上合作伙伴。对于新加入此区的印度,美国将扩大与其在安全及国防方面的合作,并支持其增加与此一地区各国的关系。值得鼓舞的是,报告也提到美国将在其「一个中国」的政策下与台湾维持坚强的关系,包括在《台湾关系法》下提供适当的防卫需求及吓阻外来的胁迫。
陆、结论
综合而言,此份国家安全战略报告反映出川普个人及共和党的价值观,亦即强调美国优先、遵从美国价值观的现实主义、实力原则、以及自由、公平及互惠的贸易原则。美国将与「中」俄两大国竞争,但是并非敌对,也愿意合作,并将对抗流氓国家及跨国恐怖主义的挑战。在亚太地区,美国提出「印太地区」战略,将印度纳入并支持其扮演重要角色,未来也将加强与日本、澳洲等四国的合作以制衡大陆。可以预见,未来美「中」将在此一地区竞合,影响地区的经济及安全发展,区内的许多国家,包括台湾在内都将成为美国关切及合作的对象。
Đọc thêm...

Nội hàm và ảnh hưởng “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (phần 5)

07:57 |
Cái giá phải trả cho sự rời rạc
Bản chất bất thường của nhiệm kỳ tổng thống của Trump khiến cho sự rời rạc mang tính truyền thống của NSS trở nên đặc biệt sâu sắc. Sự không thống nhất giữa ngôn từ của NSS và các quan điểm đã nêu của chính Trump làm suy yếu bất kỳ giá trị nào mà tài liệu này có thể có với vai trò là đường lối chỉ đạo việc thực hiện chính sách đối ngoại trên thực tế. Và sự bốc đồng của Trump làm dấy lên câu hỏi rằng liệu chính quyền này có thể thực hiện bất kỳ chiến lược nào hay không.
Hãy lấy vai trò của các liên minh trong chiến lược của Mỹ làm ví dụ. Nỗi ác cảm của Trump đối với các đồng minh của Mỹ đã có từ lâu: từ những năm 1980, ông đã cho rằng "các ‘đồng minh’ của chúng ta đang khiến cho hàng tỷ người lợi dụng chúng ta", một thông điệp ông đã nhắc lại nhiều lần trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình. Ngay cả khi đã nhậm chức, ông cũng nhiều lần từ chối xác nhận Điều 5 trong Hiến chương của NATO, vốn ràng buộc các thành viên của liên minh này trong một cam kết bảo vệ lẫn nhau (cuối cùng ông đã lật ngược lập trường đó). Do đó, khi một NSS được viết dưới danh nghĩa của Trump khẳng định "những lợi thế vô giá mà các mối quan hệ mạnh mẽ của chúng ta với các đồng minh và đối tác mang lại", thì những ngôn từ này có vẻ sáo rỗng.
NSS của Trump tìm kiếm sự khác biệt bằng một sự thừa nhận mang màu sắc chính sách thực dụng - hay "mang tính thực tế có nguyên tắc" – rằng nền chính trị quốc tế là một doanh nghiệp vốn có tính cạnh tranh. Tài liệu này lập luận rằng một trong những đối thủ cạnh tranh chính về an ninh của Mỹ là nước Nga theo chủ nghĩa xét lại, mà cùng với Trung Quốc sẽ "thách thức quyền lực, ảnh hưởng và quyền lợi của Mỹ, âm mưu làm xói mòn an ninh và sự thịnh vượng của Mỹ”. NSS không chỉ lưu ý rằng Nga đe dọa các lợi ích của Mỹ ở châu Âu, mà còn nhấn mạnh việc Nga sử dụng "các công cụ thông tin nhằm phá hoại tính hợp pháp của các nền dân chủ", một lời bóng gió không hề tế nhị về sự can thiệp của Moskva vào cuộc bầu cử năm 2016. Nhưng ở đây, ngôn từ cũng trái ngược với các quan điểm thường được tuyên bố của tổng thống về vấn đề này. Trump đã nhiều lần ca ngợi Tổng thống Nga Vladimir Putin và, đến lượt mình, hân hoan đón nhận lời tán dương của Putin trong khi coi nhẹ phát hiện mang tính đồng thuận của các cơ quan tình báo Mỹ rằng Nga đã can thiệp vào cuộc bầu cử năm ngoái.
Có nhiều mâu thuẫn như vậy, sau khi phê phán chủ nghĩa ngoại lệ của Mỹ là nguy hiểm, liệu Trump có thực sự tin rằng Mỹ là một "lực lượng bền vững bảo vệ cho sự tốt đẹp trên thế giới" như NSS tuyên bố hay không? Với cách tiếp cận mang tính giao dịch của ông đối với chính sách đối ngoại, có bao nhiêu không gian cho các "giá trị và khát vọng" với vai trò là cơ sở cho sự hợp tác? Và nếu các nhà ngoại giao là "không thể thiếu để xác định và tiến hành các giải pháp cho những xung đột ở các khu vực bất ổn trên thế giới", thì tại sao chính quyền của ông lại hạ thấp tính hiệu quả của Bộ Ngoại giao? Nói một cách cơ bản hơn, NSS phải đối mặt với nhiệm vụ bất khả thi là vạch ra lộ trình chiến lược cho một nhà ra quyết định bốc đồng. Hầu hết các hành động chính sách đối ngoại quan trọng của ông cho tới nay - rút khỏi Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), bác bỏ thỏa thuận khí hậu Paris, không xác nhận thỏa thuận hạt nhân của Iran, công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel - không phải là kết quả của các đánh giá địa chính trị cẩn trọng, cũng như không phải là để hoàn thành các cam kết trong chiến dịch tranh cử. Nếu được trao cho một sự lựa chọn, Trump có khả năng sẽ chọn những chiến thắng chiến thuật ngắn hạn thay vì thực hiện dần dần các ưu tiên dài hạn được trình bày trong NSS.
Lên kế hoạch, chứ không phải bản thân các kế hoạch
Tổng thống Dwight Eisehower có câu nói nổi tiếng: "Bản thân các kế hoạch là không có giá trị, mà việc lên kế hoạch mới là quan trọng nhất". Nếu có điều gì biện minh cho NSS dưới hình thức hiện nay, thì đó là “quá trình quan trọng hơn là sản phẩm cuối cùng”. Quá trình đó buộc các nhà ra quyết định cấp cao, quá thường xuyên bị trói buộc trong các yêu cầu hàng ngày đối với các vị trí của họ, phải mở rộng tầm nhìn phân tích của họ. Nó cũng cho phép các cấp thấp hơn của bộ máy quan liêu hiểu sâu sắc hơn các ưu tiên hàng đầu của Nhà Trắng.
Nhưng để hoàn thành sứ mệnh chiến lược ban đầu của mình, NSS cần phải được xem xét lại - và ví dụ lớn nhất về nỗ lực đặc biệt tức cười của Chính quyền Trump cần phải thúc đẩy nhánh lập pháp đi tiên phong trong việc xem xét lại đó. Thay vì cho phép Nhà Trắng phớt lờ các yêu cầu theo quy định của pháp luật về việc phải đưa ra một NSS hàng năm cùng với yêu cầu về ngân sách, Quốc hội nên nhấn mạnh vào lịch trình ban đầu, nhưng với những kỳ vọng được giảm bớt về điều mà mỗi tài liệu sẽ bao hàm. Mặc dù NSS đầu tiên của một chính quyền phải bao gồm một tuyên bố tầm nhìn táo bạo, các tài liệu chiến lược an ninh quốc gia tiếp theo không cần nhấn mạnh tính mới lạ; chúng cần phải đóng vai trò như là một cơ hội để sửa đổi các giả định chiến lược dựa trên cơ sở các sự kiện trên thế giới, đánh giá tiến độ thực hiện, và nếu cần thiết, hiệu chỉnh lộ trình. Các tài liệu tạm thời này có thể được phân loại và ngắn gọn để tạo điều kiện cho đánh giá thẳng thắn.

Quốc hội không cần chờ cho tới khi chính quyền kế tiếp ban hành những thay đổi này. Các thành viên của Uỷ ban quân vụ của Thượng viện và Hạ viện có thể thông báo ngay cho Nhà Trắng của Trump về thủ tục mới. Với một quy trình NSS bám sát với thực tế hơn, các tài liệu đưa ra có thể có các tham vọng khiêm tốn hơn. Nhưng những tiêu đề mờ nhạt là một mức giá rẻ phải trả để đổi lấy chiến lược đúng đắn hơn.
Đọc thêm...

美国《国家安全战略报告》 的内涵与影响(第四期)

07:55 |
伍、印太地区的战略

在报告的最后一章揭示美国的各区域战略,包括印太地区、欧洲地区、中东地区、南亚及中亚地区、西半球地区及非洲地区。关于亚洲地区川普政府最大的变化是将过去几任政府所提倡的亚太地区进一步扩大为印太地区,将印度也拉入美国关切的地域。之所以有此改变,应该是基于两个原因:首先,印度在地区的经济角色越来越重要,并且与亚太地区国家的经济连结越来越密切,美国基于经济发展的需要不能忽视此一大国及其海域。其次,基于与大陆竞争的必要,美国必须拉拢与自己在政治经济理念相近的印度,将其纳入包括大陆在内的印太地区,以增加抗衡大陆的力量。基于上述的地缘政治经济考量,报告指出一个存在于自由与压迫的世界秩序观的地缘政治竞争正在印太地区展开,大陆正在运用其经济的诱因与惩罚,影响作为以及隐含的军事威胁以促使其他国家屈从于自己的政治与安全目标。美国认为大陆所推动的「一带一路」倡议,是运用基础建设的投资及贸易策略以强化其地缘政治的规划,在南海岛礁的建设与军事化则是危及贸易的自由运输、威胁相关国家的主权以及削弱地区的稳定。报告认为大陆虽然以共同利益的口号包装野心,但是其主导地位却会削弱其他国家的主权及安全。美国认为大陆的意图就是取代美国在此一地区的领导地位,并会妨碍其他国家的安全与主权,制造地区的不安。报告认为此一地区的另一个威胁来自于北韩,因为北韩正加速发展网络攻击、核武及飞弹能力,对于全球都是安全威胁。基于遏制大陆及北韩的威胁,报告提到美国欢迎既有盟邦扮演更重要的角色,包括日本、南韩、澳洲及纽西兰。基于制衡大陆的考量,报告特别指出美国欢迎印度成为一个全球的领导大国,以及成为美国战略及防卫的强大伙伴。同时美国也将增加与日本、澳洲及印度的四边合作,报告虽未明言,未来应该包括军事合作在内,形成日本首相安倍晋三所提倡的菱形战略圈。美国也将加强与东南亚国家,尤其是美国的盟邦菲律宾及泰国的军事及经济合作,而东南亚国家协会组织(ASEAN)以及亚太经济合作组织(APEC),都被美国认为是印太地区中推动基于自由原则的重要平台。
Đọc thêm...

Nội hàm và ảnh hưởng “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (phần 4)

07:53 |
Có mục tiêu nhưng không có phương thức
Là một phần của cải cách quốc phòng trên diện rộng, Đạo luật Goldwater-Nichols năm 1986 giao nhiệm vụ cho Nhà Trắng soạn thảo một báo cáo hàng năm lên Quốc hội về chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ. Tài liệu này được cho là để xem xét lại “các lợi ích, mục đích và mục tiêu trên toàn thế giới” của Mỹ; trình bày “các đề xuất sử dụng những yếu tố chính trị, kinh tế, quân sự và các yếu tố khác của sức mạnh quốc gia trong ngắn hạn và dài hạn”; và đánh giá các năng lực cần có để thực thi chiến lược được chọn. Khi đó, nó có thể giúp các nhà phân bổ ngân sách của Quốc hội kết nối ngân sách và chiến lược, cũng như chỉ đạo các đánh giá chiến lược khác bên trong chính quyền, cụ thể là trong quân đội và Bộ Quốc phòng.
Trong 3 thập kỷ kể từ đó, NSS đã ngày càng xa rời các yếu tố then chốt này của việc thực thi. Thay vì có một chiến lược đi kèm với mỗi kiến nghị ngân sách hàng năm, hai chính quyền gần đây nhất đã soạn thảo một chiến lược cho mỗi nhiệm kỳ, với rất ít sự kết nối tới các đánh giá chính sách khác. Chẳng hạn, Chính quyền Obama đã cho ra mắt Báo cáo quốc phòng 4 năm 1 lần của Lầu năm góc vào tháng 2/2010, ba tháng trước khi công bố NSS vào tháng 5. Năm nay, Chính quyền Trump đã đệ trình kiến nghị ngân sách của mình lên Quốc hội nhiều tháng trước khi hoàn thiện NSS.
Chiến lược tốt bao gồm việc cân bằng giữa mục tiêu và phương thức, và kết quả tích lũy của những thay đổi này là đã nhấn mạnh quá mức vào mục tiêu mà bỏ bê phương thức. Mỗi NSS cuối cùng đã có nét đặc trưng là sự nở rộ của giọng điệu rất khoa trương và các mục tiêu thái quá mà không bị kiềm chế bởi các thực tế chính trị và vật chất. Trong một ví dụ đương thời có lẽ mang tính cực đoan nhất, NSS năm 2006 của Tổng thống George W. Bush đã xác định “việc chấm dứt chính thể chuyên chế trong thế giới của chúng ta” là mục tiêu của chính sách đối ngoại của Mỹ. Ngay cả khi NSS năm 2015 của Chính quyền Obama khẳng định rằng “những sự đánh đổi chính sách và các lựa chọn khó khăn sẽ cần phải được thực hiện”, nó tiếp tục nhấn mạnh 8 ưu tiên riêng rẽ, từ chống biến đổi khí hậu và các dịch bệnh truyền nhiễm tới xử lý vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và các nhà nước thất bại.
Chiến lược là gì?
Một đại chiến lược hiệu quả của Mỹ đòi hỏi phải có một học thuyết chặt chẽ về an ninh quốc gia, một học thuyết xác định mục đích của sức mạnh Mỹ và cân bằng giữa phương thức và mục tiêu cần có để đạt được mục đích đó. Thế nhưng bất chấp tất cả những biến động và thay đổi trong 7 thập kỷ qua, tầm nhìn của bộ máy chính quyền về vai trò thích hợp của Mỹ trên thế giới hầu như không có sự thay đổi: các nốt nhạc có khác nhau, nhưng bài hát thì vẫn như cũ. Từ Chiến tranh Lạnh cho tới ngày nay, các tổng thống của cả hai đảng đều kêu gọi Mỹ lãnh đạo trật tự quốc tế tự do mà Washington và các đồng minh đã xây dựng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày nay, các chiến lược gia phải đối mặt với cùng một câu hỏi xuất hiện định kỳ trong suốt kỷ nguyên hậu chiến: Liệu Mỹ có thể và có nên tiếp tục đi theo truyền thống này hay không – và nếu không, thì một cách tiếp cận mới sẽ trông như thế nào?
Nếu câu trả lời là có, chiến lược khi đó phải kể đến các mối đe dọa quốc tế mà có thể làm suy yếu trật tự, cùng với các cơ hội có thể củng cố nó, và sau đó kết nối mục tiêu và nguồn lực. Cho dù có sức hút đến đâu về mặt trí tuệ, thì các mục tiêu chiến lược hầu như không có ý nghĩa nếu không được gắn với các phương thức quân sự, kinh tế và ngoại giao cần có để đạt được chúng. Mặc dù một mức độ khát khao nào đó là điều không tránh khỏi, nhưng việc lập kế hoạch trong tương lai xa cần phải xuất phát từ các đánh giá thực tế về năng lực, cũng như các bước đi tạm thời hợp lý hướng tới các mục tiêu trong dài hạn.

Các đại chiến lược hiệu quả nhất của Mỹ đã kết hợp tầm nhìn chiến lược táo bạo với sự chú ý thận trọng tới các nguồn lực. Thừa nhận các hạn chế của sức mạnh Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Richard Nixon và Cố vấn an ninh quốc gia của ông, Henry Kissinger, đã tìm cách tiếp sinh lực cho vai trò lãnh đạo của Mỹ với phí tổn có thể chịu đựng được. “Học thuyết Nixon” đã giải quyết những hạn chế bằng cách nhấn mạnh việc chuyển giao trách nhiệm về an ninh khu vực cho các đối tác của Mỹ ở nước ngoài, việc duy trì lực lượng hạt nhân cần thiết để ngăn chặn một cuộc tấn công vào Mỹ và các đồng minh, và việc giảm căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô. 13 năm sau, Chính quyền Reagan đã đảo ngược đường lối với một đại chiến lược dựa trên giả định rằng Mỹ có cả năng lực kinh tế lẫn ý chí chính trị để cạnh tranh quyết liệt hơn với Liên Xô. Bằng cách mở rộng sức mạnh quân sự của Mỹ, chiến lược Reagan, được Hướng dẫn quyết định an ninh quốc gia (NSDD) 75 vạch ra, đã đón nhận cạnh tranh Mỹ-Xô và chủ trương tiến hành các bước đi quyết liệt nhằm thúc đẩy Moskva hướng tới sự mở cửa lớn hơn tại quê nhà.
Đọc thêm...

美国《国家安全战略报告》 的内涵与影响(第三期)

07:51 |
肆、与「中」俄的大国关系

报告对美国与「中」俄等大国的关系上,也有相当明确的定位及规划。报告认为大陆与俄国都是有意改变现状的强国,他们与美国在利益及价值观上不同,并且在政治、经济、及军事领域上与美国竞争。大陆寻求取代美国在印太地区(Indo-Pacific region) 的地位,扩大国家推动的经济发展模式的范围,以及重新塑造此一地区的秩序朝其有利的方向发展。俄国则寻求重新恢复大国的领导地位,建立其周遭地区的势力范围,意图削弱美国在世界上的影响力,以及分化美国与盟邦及伙伴国家的关系。俄国正投资新一代的军事武力,包括核武体系,也是当前美国最大的安全威胁,以及提升网络战能力。虽然报告将「中」俄视为美国的最主要竞争对手,并且主张美国应该积极强化各方面的能力尤其是武力,以赢得此项竞争,但是也认为美国与这两国的关系并非一成不变,竞争关系也不意味着总是敌对,也不代表终将导致冲突,美国也应寻求与这两大国家的合作,包括制止北韩核武发展、防止核武及其他大规模毁灭性武器的扩散、打击恐怖主义及推动经济发展等。综合而言,报告建议美国与「中」俄两大国家维持竞争与合作并存的关系,这也反映了后冷战时期国际核武大国关系的特质。
Đọc thêm...

Nội hàm và ảnh hưởng “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (phần 3)

07:49 |
Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ có giá trị hay không?
Mặc dù bản Chiến lược an ninh quốc gia không giúp ích nhiều trong việc đưa ra các dự đoán về đường lối chính sách đối ngoại của Mỹ, việc nghiên cứu tài liệu này không hẳn là vô ích. Một trong những điều chúng ta có thể chắc chắn được là không có bất kỳ một cơ quan hay chính quyền nào không có sự chia rẽ ít nhiều trong nội bộ. Việc các phe phái có quan điểm đối lập nhau trong các vấn đề chính sách cốt yếu là lẽ hoàn toàn tự nhiên. Bản Chiến lược an ninh quốc gia là một sản phẩm của quá trình hoạch định chính sách liên ngành (inter-agency process) tức nó sẽ được xây dựng với sự góp ý và kiểm duyệt của cả Hội đồng An ninh Quốc gia (National Security Council) và Bộ Ngoại giao cùng các bộ ngành liên quan khác. Vì vậy, sản phẩm cuối cùng chắc chắn sẽ phải phản ánh một sự thoả hiệp nào đó giữa các cơ quan này.
Do đó, dựa vào bản Chiến lược an ninh quốc gia, chúng ta có thể đánh giá được “cân bằng quyền lực” giữa các phe phái chủ chốt trong chính quyền. Trong trường hợp chính quyền Trump, chúng ta biết rằng tại thời điểm này có hai phe có ảnh hưởng lớn nhất là phe “America First” và phe thực dụng do những người như tướng James Mattis hay McMaster cầm đầu. Ngôn ngữ được sử dụng trong bản Chiến lược an ninh được công bố chính thức sẽ phần nào phản ánh được bên nào đang thắng thế trong cuộc đua gây ảnh hưởng lên chính sách của Trump. Tuy nhiên đánh giá một cách chính xác cán cân quyền lực giữa các thế lực bên trong chính quyền Mỹ không hề dễ, đặc biệt khi chúng ta không có các nguồn tin nội bộ đủ cụ thể và tin cậy. Do đó, kể cả trong trường hợp này, việc nghiên cứu bản Chiến lược an ninh quốc gia một cách kĩ lưỡng cũng chỉ có thể giúp chúng ta đánh giá một cách rất tương đối về tương quan lực lượng giữa hai bên chứ không thể phản ánh được chính xác điều gì đang diễn ra ở bên trong chính quyền hiện nay và phe nào cuối cùng sẽ gây ảnh hưởng lên chính sách nhiều hơn.

Thay vì dành thời gian nghiền ngẫm từng câu chữ của bản Chiến lược an ninh quốc gia, các nhà nghiên cứu nên theo dõi sát sao phản ứng của các nước khác đối với bản Chiến lược này. Mỗi quốc gia sẽ có một cách diễn giải riêng về nội dung và hàm ý của bản Chiến lược, từ đó đưa ra phản ứng thích hợp. Việt Nam sẽ phải đặc biệt quan tâm đến phản ứng của Nga và Trung Quốc cũng như các nước khác trong khu vực như Nhật Bản, Philippines. Chúng ta không được quên rằng một trong những nguyên nhân chủ chốt dẫn đến Chiến tranh Triều Tiên là bởi Stalin đã đọc sai ý đồ của người Mỹ ở Châu Á. Bài diễn văn của Bộ trưởng ngoại giao Dean Acheson tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia (National Press Club) đã vô tình gửi đi tín hiệu đến Bắc Triều Tiên và Liên Xô rằng Nam Hàn không thuộc phạm vi mà Mỹ sẵn sàng bảo vệ và vì vậy họ phát động tấn công xâm lược Nam Hàn. Vì vậy, chúng ta có thể dành ít sự quan tâm cho bản Chiến lược an ninh của Mỹ nhưng cần theo dõi sát sao phản ứng của các nước láng giềng đối với bản định hướng chiến lược này.
Đọc thêm...

美国《国家安全战略报告》 的内涵与影响(第二期)

07:48 |
参、政治、外交、经济及军事的战略作为
为了在这场竞争中获胜,报告提出美国在政治、经济、外交、军事及情报上应该因应的策略与准备。首先,在保护美国国土及人民安全方面,美国应该先维护好边界及领土的安全,以预防流氓国家或恐怖主义份子对美国进行大规模毁灭性武器,包括核生物武器的攻击。报告主张美国应该加强飞弹防御能力、侦测及摧毁大规模毁灭性武器、强化反扩散机制、打击国际恐怖组织。对于恐怖组织的渗透,报告也建议美国应该强化对于边界管制及移民管理的政策。对于防制伊斯兰国及盖达组织在军事被击溃后的安全威胁,报告建议美国应加强情报搜集能力以事先阻止恐怖攻击的图谋、对于恐怖组织的地下组织及网络直接进行打击摧毁、破坏恐怖组织发展的资金、物资及人员供应链、与相关国家加强合作以获取情资及增强反恐力量、避免极端主义思想在美国国内蔓延滋生等。由于网络在美国及全球使用的普及化,报告也特别提出维护美国网络安全的策略,包括评估美国国家重大基础设施(国家安全、能源与电力、银行与金融、医疗、通讯及交通等设施)面临被攻击的风险、建立有防御能力的政府网络、吓阻及打击恶意的网络攻击者、加强政府与相关部门的合作以及时获得情资、建立多层次的防御能力等。
第二,报告认为美国的经济繁荣是国家安全重要的一环,也符合川普非常强调的复甦美国经济的优先性。报告特别强调美国现在的经济发展正面临其他国家不公平及不自由的经贸政策的伤害与挑战,以致于美国的经济及贸易处于一个不利的竞争局面,川普政府将努力导正此一缺失。报告强调美国欢迎一个公平、互惠及诚实遵守规则的经贸关系,将不再容忍其他国家违反自由贸易的规则、欺骗及经济侵略的作为。言下之意,川普政府认为过去美国所强调的自由贸易政策及签署的协议,并未获得其他国家认真的遵守,也对于美国的经贸发展不利。川普政府所批评的对于美国不公平的国家中,大陆即是其中一个主要的国家,因为大陆并未真正采行市场经济的制度,政府对于企业提供许多协助及保护,有利于与国外企业的竞争,创造出口的优势,但是却限制国外企业进入大陆市场,形成不公平的竞争。报告主张美国将采行的经济策略包括复甦美国的经济、施惠美国的工人、活化美国的生产基础、创造中产阶级的工作、鼓励创新、保持科技的优势、保护环境、及达成能源的优势。在对外的部分,美国将推动「自由、公平及互惠(free, fair, and reciprocal)」的经济关系与体制。美国应采取的具体措施包括将与愿意遵守公平及互惠贸易的国家推动双边的贸易及投资协议,修订既有的双边或多边协议以符合上述的原则、采取所有适当的手段以反制他国不公平的贸易作为、促使及协助他国打击贪腐行为以为美国企业争取透明及公平的经营环境、扩大美国的贸易及投资机会及增加美国货品及服务的出口市场。
第三,为了因应国际上各类的挑战,报告认为美国必须保持军事实力的明显领先,并与盟邦及伙伴国的力量充分整合。在具体的作法上包括改善现有的武器系统以提升攻击力、发展新式武器以具备比对手明显的军事优势、建立新的武器采购途径以争取更好的采购结果、建立足够的武力规模以能击败敌人、巩固军事成果、及达成可持续的结果以保护美国人民及重要利益。因此报告认为需要调整欧巴马时期的裁减武力政策、重新专注于军队的训练、后勤及维持以提升武力的完善程度、保持强固的前沿部署及灵活的全球军事移动力、具备足以吓阻及击败对美国各种形式的威胁,包括传统的军事威胁及非传统的恐怖攻击及非正规军事冲突。报告也强调美国的核武能力是长期以来国家安全战略中很重要的支撑力量,发挥吓阻对于美国及盟邦侵略的作用,也降低美国盟邦自己发展核武的必要性,因此美国必须维持可信的吓阻及保证盟邦安全的核武能力。具体的作法包括:维持足够的核武架构以满足现有的需求及因应突发的危机、更新美国的核武生产体系以确保具有科学的、工程的及制造的能力以维持有效的及安全的三位一体核武打击系统、与其他核武国家协商以建立可预测的关系及降低核战的风险。但是报告也强调美国也绝不允许对手国运用核武的威胁以胁迫美国及其盟邦,此一政策明显是针对北韩近期发展核武以要求美国停止对其军事施压的回应,表明美国不会因为北韩核武的威胁而改变要求北韩放弃核武的政策。报告也强调太空空间对于军事安全的重要性,美国将确保不受干扰地使用太空,任何有害的干扰及攻击美国太空设施,将遭致美国的反制回应。网络空间对于国家安全及军事安全的维护已愈发重要,报告指出许多国家及非国家的行为者运用网络攻击以伤害其他国家的利益,美国也常遭遇此类的攻击,建议美国采取的因应作法包括:改善追踪攻击来源及立即反制的能力、强化网络防护工具及培养训练网络战人力、强化政府部门的整合以对抗敌方的网络攻击。
第四、报告指出外交也是维护美国国家安全的重要途径,也强调强化军事武力的目的之一也是为了协助外交的运用。为了推动外交的效能,报告建议美国应该保持前进的外交部署以奠定与他国的外交关系、领导联盟以推进共同的利益、建立贸易及合作的机会及推动文化的交流。报告也提到经济手段也可以当作外交的工具,具体的作法包括强化与盟邦及伙伴国家的经济连结、对于安全威胁国家施加经济压力,例如目前对于北韩的经济制裁、阻止恐怖组织及大规模武器扩散国家获得经济利益。
Đọc thêm...

Nội hàm và ảnh hưởng “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (phần 2)

07:45 |
Từ chiến lược tới hành động

Trong một thế giới lý tưởng, chúng ta có thể kỳ vọng rằng các nhà lãnh đạo quốc gia sẽ hành xử một cách “duy lý” (rational). Điều này có nghĩa là trước khi đưa ra các quyết sách, họ sẽ tính toán, bàn thảo một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng từng mục tiêu một rồi sắp xếp chúng theo trình tự ưu tiên từ cao xuống thấp một cách hợp lý. Quan trọng hơn hết, các nhà lãnh đạo sẽ lựa chọn cách thức và phương tiện mà họ cho là hiệu quả nhất, với tổn phí thấp để đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Nói cách khác, chúng ta kỳ vọng rằng các nhà lãnh đạo sẽ dành thời gian soạn ra một bản định hướng chiến lược trước khi thực thi chính sách. Và khi định hướng chiến lược đã được công bố, chúng ta kỳ vọng rằng các nhà lãnh đạo sẽ đảm bảo chính sách đi đúng quỹ đạo đã được vạch ra trong bản định hướng chiến lược.

Trong thế giới thực, sẽ luôn có một độ vênh đáng kể giữa những gì các chính trị gia nói và những gì họ làm được. Các sự kiện luôn có thể bất ngờ ập đến và phá hỏng những kế hoạch đã được chuẩn bị kĩ lưỡng nhất. Tổng thống George W. Bush khi tranh cử đã cam kết sẽ theo đuổi một chính sách đối ngoại khiêm tốn hơn so với người tiền nhiệm Bill Clinton nhưng chính Bush lại là người đẩy nước Mỹ vào một cuộc “thập tự chinh” đẫm máu ở Trung Đông sau vụ tấn công khủng bố 11/9. Tổng thống Obama khi lên nắm quyền đã hi vọng rằng những nỗ lực tái khởi động của mình sẽ giúp quan hệ Mỹ-Nga trở nên nồng ấm hơn. Tuy nhiên sau khi Nga can thiệp vào Ukraine và sáp nhập bán đảo Crimea vào lãnh thổ của mình thì chính Obama lại là người tìm cách cô lập Nga hoàn toàn về mặt ngoại giao và kinh tế. Đây là hai ví dụ khác nhau nhưng trong cả hai trường hợp, các chính quyền Mỹ đều bị đẩy vào thế buộc phải phản ứng trước các sự kiện bất ngờ – điều họ không thể dự tính trong bản Chiến lược an ninh quốc gia của mình. Trong những trường hợp như vậy, những bản Chiến lược an ninh quốc gia được công bố sau đó mang tính biện minh cho những hành động đã được đưa ra hơn là định hướng chính sách. Nếu như vậy thì chúng không có mấy giá trị cho những ai muốn dựa vào những tài liệu này để dự báo chính sách của Mỹ.

Kể cả khi không có những sự kiện bất ngờ xảy ra thì chúng ta cũng không có cơ sở vững chắc để tin rằng các nhà lãnh đạo Mỹ có thói quen xây dựng chính sách dựa trên đường lối được vạch ra trong các tài liệu định hướng chiến lược. Nói đến chiến lược ngăn chặn (containment) và Chiến tranh Lạnh, người ta sẽ lặp tức nghĩ đến nhà ngoại giao kỳ cựu George Kennan – người được biết đến như cha đẻ của chiến lược nổi tiếng này. Hệ thống liên minh quân sự toàn cầu của Mỹ với khối NATO là trọng tâm chính trong nền tảng của chiến lược ngăn chặn mà Mỹ theo đuổi trong suốt hơn bốn thập niên Chiến tranh Lạnh. Đây là một thực tế ít ai bàn cãi. Suy luận một cách lôgic, nhiều người chắc hẳn sẽ nghĩ rằng một người như Kennan phải ủng hộ việc thành lập NATO cũng như các liên minh khác của Mỹ ở Châu Á. Tuy nhiên đây là một kết luận hoàn toàn sai lầm. Trên thực tế, Kennan là người phản đối việc Mỹ thiết lập liên minh NATO và thậm chí cho rằng Đức và Anh Quốc không đáng được hưởng viện trợ từ Kế hoạch Marshall. Khối NATO cũng như các liên minh quân sự song phương của Mỹ ở Châu Á là sự đáp trả của Mỹ trước những gì họ cho là những mối đe doạ tiềm tàng như Liên Xô và làn sóng cộng sản ở những khu vực này sau Thế Chiến II. Nói cách khác, những gì chúng ta cho là kết quả của một chiến lược có hệ thống trên thực tế thường chỉ là những phản ứng ngắn hạn mang tính “bản năng” trước các diễn biến bất ngờ. Nếu đúng như vậy thì quả thực giá trị của những tài liệu như Chiến lược an ninh quốc gia vô cùng hạn chế.

Một số người có thể sẽ phản biện rằng kể cả những điều trên đúng thì một bản Chiến lược an ninh quốc gia vẫn hết sức quan trọng bởi nó đóng vai trò như một tuyên bố về chính sách đối ngoại của một chính quyền mới. Điều này hoàn toàn đúng nhưng chỉ trong trường hợp chính quyền này chưa đưa ra các tuyên bố chính sách trước khi công bố bản Chiến lược an ninh quốc gia. Khi đó, bản Chiến lược an ninh quốc gia ít nhất sẽ cho phép chính quyền này truyền đi thông điệp lớn về chính sách tới các quốc gia khác để trấn an các đồng minh cũng như răn đe các đối thủ. Trong trường hợp chính quyền Trump, trước khi bản Chiến lược an ninh quốc gia vừa qua được công bố, Trump đã có rất nhiều bài phát biểu tại cả thời điểm trước và sau khi thắng cử mà trong đó ông nêu rất rõ tầm nhìn của mình về vai trò của nước Mỹ trong trật tự thế giới hiện nay và lợi ích quốc gia của Mỹ. Nói cách khác, chúng ta không cần phải chờ đọc bản Chiến lược an ninh quốc gia này để biết rằng Trump sẽ theo đuổi đường lối đối ngoại thực dụng đặt lợi ích của Mỹ lên trước tiên (“America First”) hay cũng không cần chờ đến bây giờ mới biết rằng chính quyền Trump không chú trọng các cơ chế đa phương và các vấn đề nhân quyền như các chính quyền Mỹ trước đây. Tất cả những điều này đều đã bộc lộ rất rõ qua các phát biểu của Trump hoặc các quan chức cấp cao khác như Cố vấn an ninh McMaster hay Đại sứ Mỹ tại LHQ Nikkey Haley. Do đó, bản Chiến lược an ninh quốc gia này cũng không có giá trị nhiều về mặt gửi đi thông điệp đến các quốc gia khác.

Cuối cùng, nói đến Chiến lược an ninh quốc gia, nhiều người hẳn sẽ nghĩ rằng đây phải là một tài liệu định hướng vô cùng quan trọng và vì vậy phải được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng và nhận được sự quan tâm sâu sát từ các nhà hoạch định chính sách cấp cao nhất. Thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Theo cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Doug Feith, ông và Bộ trưởng Quốc phòng khi đó là Donald Rumsfeld thậm chí còn chưa từng đọc bản Chiến lược an ninh quốc gia năm 2002 của chính quyền Bush trước khi nó được công bố, chứ chưa nói gì đến việc góp ý hay chỉnh sửa. Ví dụ này không cho thấy tất cả các bản Chiến lược an ninh quốc gia đều bị các nhà hoạch định chính sách cấp cao “ngó lơ” nhưng rõ ràng nó là lời cảnh tỉnh đối với những ai đang có niềm tin rằng một tài liệu quan trọng như Chiến lược an ninh quốc gia nhất định phải nhận được sự quan tâm đúng mực từ tất cả các quan chức cấp cao. Trong bối cảnh nội bộ chính quyền Trump vẫn đang hết sức rối ren (nhiều cán bộ ngoại giao kỳ cựu đã xin từ chức sau khi Trump lên nắm quyền và nhiều vị trí chủ chốt trong chính quyền vẫn còn bỏ trống) thì không có gì đáng ngạc nhiên nếu như bản Chiến lược an ninh quốc gia năm 2017 không được kiểm duyệt một cách kĩ lưỡng. Nếu đúng như vậy thì việc nghiên cứu bản Chiến lược an ninh quốc gia này sẽ không giúp chúng ta giải mã được ý đồ chiến lược của các nhà lãnh đạo Mỹ bởi nó chưa chắc đã phản ánh đúng những gì họ đang nghĩ.
Đọc thêm...

美国《国家安全战略报告》 的内涵与影响(第一期)

07:43 |
美国川普政府于去(2017)年底发布任内第一份《国家安全战略报告》(以下简称报告),阐述其关于美国国家安全战略的理念与作法。由于美国是全球第一强国,川普又是言行难以揣测的政治人物,此份报告自然引起各方的关注。
壹、美国优先的国家安全战略
报告一开始就强调这是一份「美国优先」的国家安全战略。此一口号是川普在竞选时及当选之后所一再强调,当然成为定位及指导此份安全战略的主轴,也充分反映川普个人的特色。所谓的「美国优先」,是要让美国的力量强大,以确保美国的安全、繁荣及自由,并进而领导全世界,与其伙伴国实现共同的利益与价值。基于上述目标,在报告中申明战略规划将基于「有原则的现实主义」(principled realism),亦即美国将根据自己的立国原则,以现实主义的方式维护自身的安全。所谓美国的原则包括美国《宪法》及《人权法案》中所揭橥的理念,涵盖民主政治、宗教、言论、出版、集会自由、自由经济及法律平等等,是世界得以美好的持续力量。所谓的现实主义是指美国将建立自身的实力,以推动美国的利益及价值。由于受到现实主义思维的影响,报告中强调国际的和平、安全及繁荣有赖于强大的主权国家们合作,而且美国处于一个高度竞争的国际环境,主要是来自于中国大陆(以下简称大陆)及俄罗斯的挑战。在此一高度竞争的国际关系中,报告揭橥美国将必须保护四项核心的利益:一、保护美国人民、国土(homeland)、及美国人的生活方式。二、推动美国的繁荣。三、藉由实力以维护和平。四、增进美国的影响力。现实主义一向是美国外交的传统思维,尤其是共和党执政时更是如此,过去如尼克松、里根及小布什时期都是。川普虽然不是传统的共和党人,但是却笃信现实主义的想法,上任之初还多次请教共和党外交战略大老季辛吉,而季本人就是一个现实主义的倡导者。基于现实主义的思维,美国必须维护其国际领导地位,并且倾向于以怀疑的眼光看待其他大国的行为,尤其是价值观与政经制度不同于美国的国家。

贰、美国面临的挑战与威胁
报告指出美国当前面临三大安全挑战及威胁。首先,来自于竞争大国的挑战。在当前的国际社会中俄罗斯及大陆都是美国的竞争者,意图消减美国的安全与繁荣,强化自身国力,改变区域及全球的权力结构朝对自己有利的方向发展。尤其是,报告中认为这两个国家仍采取高压的方式以限制一般人民的自由,所采取的经济制度仍是由国家所主导,但是美国则是一个自由民主的国家,而且采行市场经济的制度,与这两个国家完全不同。其次,来自于流氓国家(rouge states)的威胁。在报告中列出了北韩及伊朗这两个国家,对内采取极权压迫人民的统治,对外危害区域稳定,威胁美国及盟邦的安全。北韩的威胁来自于其不断提升的核武及飞弹能力,威胁到美国及周遭盟国的安全,现在已经成为美国最大的安全威胁,也是川普政府东亚安全的防制重点。伊朗的威胁也包括其持续提升的弹道飞弹能力以及可能的核武发展,也威胁到中东地区国家的安全,此外报告还指控其继续支持国际恐怖主义,在世界各地制造恐怖攻击。美国将致力于管控此两个国家的飞弹及核武发展,以避免更多国家起而效尤,导致全球大规模毁灭性武器的扩散。这两个国家都是共和党前任总统小布什时期列为「邪恶轴心」的国家,虽然民主党的前任总统欧巴马已与伊朗签订核能协议,川普政府仍然认为伊朗在违反决议发展大规模毁灭性武器,其延续共和党的反流氓政权政策明显可见。第三,报告认为跨国威胁团体,包括圣战恐怖分子(jihadist terrorists)及跨国犯罪组织,前者主要指的伊斯兰国(IS)及盖达组织,后者则为一般的跨国犯罪组织,对于于美国及其盟国也构成相当的威胁。这些组织因为信仰极端的伊斯兰教义,对于美国所代表的西方文明及自由主义极端仇视,因而展开了恐怖攻击。虽然伊斯兰国在伊拉克及叙利亚的正式组织已被击溃,仍在中东地区及世界各地继续发动恐怖攻击。川普政府的国家安全战略,就是要在世界上与这三股主要的威胁势力竞争甚至对抗,以维护美国的利益与价值观。
Đọc thêm...

Nội hàm và ảnh hưởng “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (phần 1)

07:32 |
Việc chính quyền Trump công bố bản Chiến lược an ninh quốc gia (National Security Strategy) vào tháng 12 vừa qua đã lập tức thu hút được sự quan tâm chú ý của giới quan sát. Gần như tất cả các tờ báo lớn nhỏ và các tạp chí đối ngoại ngay sau đó đã chạy loạt bài đưa tin về bản Chiến lược này cùng nhiều bình luận về ý đồ chiến lược của chính quyền Trump đằng sau các câu chữ mà họ sử dụng để mô tả các ưu tiên chính sách cũng như các đối thủ và đối tác của Mỹ. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu các nhà nghiên cứu chính sách và cán bộ ngoại giao ở nhiều nước đã phải làm việc hết công suất trong khoảng thời gian đó để “giải mã” cái mà nhiều người đang gọi là “học thuyết Trump” (Trump doctrine).
Ẩn sau những hành động này là niềm tin rằng bản Chiến lược an ninh quốc gia sẽ vạch ra định hướng đối ngoại lâu dài cho Mỹ và rằng nó phản ánh được tương đối chính xác cách mà Mỹ sẽ ứng xử trên trường quốc tế trong thời gian tới. Đây là một niềm tin có phần chủ quan và thiếu thực tế. Một bản Chiến lược an ninh quốc gia sẽ chỉ thật sự có giá trị nếu thỏa mãn được ít nhất ba điều kiện sau. Một là, tất cả các nhà hoạch định chính sách hàng đầu của chính phủ Mỹ đều tham gia một cách sát sao vào quá trình soạn thảo ra bản định hướng chiến lược. Hai là, chính quyền chưa đưa ra nhiều tuyên bố rõ ràng về chính sách đối ngoại trước khi công bố bản Chiến lược an ninh quốc gia. Ba là, chúng ta có cơ sở để tin rằng các nhà lãnh đạo sẽ thực thi chính sách đúng theo đường lối họ đã vạch ra trong bản định hướng chiến lược. Khả năng ít nhất một trong ba, nếu không phải là cả ba điều kiện đều không được thỏa mãn là không hề thấp. Vì vậy, đặc biệt với chính quyền Trump, tốt nhất đừng đọc những gì họ viết, hãy xem những gì họ làm.
Đọc thêm...

中国在南中国海的终极企图 (第二期)

08:26 |
中国在南中国海故意实施模糊策略
泰利斯认为中国不愿意说明南中国海“九段线”的属性就是模糊策略的核心。他说,这样中国就可以将自己的声索最大化,同时将反对声最小化。
他说:“我看着中国过去20年在南中国海声索的演变,我觉得最有意思的一点就是他们的声索非常模糊,但是,对将来如何确保这些声索得以实现很显然并不模糊。用中国的军事力量和国家力量来确保声索的实现,这些是可以触摸到的。你看到了他们可以感受到的威慑力。”
中国到目前也没有明确说明“九段线”到底是岛屿归属线、是领海线?还是历史水域线。他说,中国拒绝以国际仲裁的方式确定“九段线”属性也是基于同样一个考量,不希望在自己的实力能确保护自己声索得到实现前被外力强加接受某种妥协。
泰利斯说,也是出于这个原因,中国现在的策略是避免和任何一个海上大国正面对抗,因为一旦失利,中国不得不面对外部强加给自己的解决办法。他说,中国一直强调双边谈判,因为这样的谈判是有利于中国的。
中国海上战略服务于更大的国家战略
战略与预算评估中心高级研究员吉原恒淑指出,对中国人来说,中国的海上战略服务于更大的国家战略。
他说:“中国的海洋战略必须服务于中国整体的国家战略。中国独特的历史经历,中国的经济需求以及中国领导人的政治意愿都指明了这一点。”
他说,中国转战海上有历史、地理、经济以及战略上的考量。从历史上说,中国人需要洗却“百年耻辱”,中国人认为近百年的耻辱都是来自海上;从地理和经济上说,中国人觉得需要突破美国将来可能在“第一岛链”和“第二岛链”实施的封锁;同时由于中国的经济、政治、文化资产集中在东部沿海地区,中国觉得只有加强海军力量才能让自己的经济和安全利益不受损失。
除了战争手段,美国在南中国海大有作为
卡内基国际和平研究院资深研究员泰利斯说,虽然中国在南中国海的军力发展改变了区域军事力量平衡,并使之向对美国不利的方向发展,但是,美国并非无能为力。他的说法是针对美国一些人的想法提出的。在美国,有部分人认为,如果美国不想陷入战争,对中国在南中国海的所作所为基本上是无能为力的,只能听任中国慢慢改变南中国的现状。
泰利斯认为,如果放任中国不管,美国将来会付出更大的代价,因为中国的做法不仅限于南中国海,因为世界其他地方的沿海国家也可能会采取同样的行动,来限制美国的自由航行。因此,美国决策者必须想出办法增加中国在南中国海行动的成本,阻止南中国海局势恶化。
他说,美国人必须明白,美国捍卫的不是南中国海一个个无人居住的岛礁,而是美国二战后制定的秩序,因为中国挑战的正是这个秩序。他说,中国现在的所作所为就是对美国是否有能力维持传统海事领域的考验。
他说,美国在和平时期的手段可以包括,建立一个现代海事国家联盟,告诉中国,这种独占海域的做法是不可以接受的。他说,在这点上,美国甚至可以联手俄罗斯,因为俄罗斯也抱持“自由航行”的原则;制裁那些参与南中国海填海造岛行动的中国国企;提高东南亚国家监督中国的能力,帮助东南亚国家更好保护自己的利益;将美国的海上自由航行行动常态化等。
Đọc thêm...

Mục đích cuối cùng của Trung Quốc tại Biển Đông ̣(phần 2)

08:24 |
Trung Quốc cố tình thực hiện sách lược “mơ hồ” tại Biển Đông
Ashley J.Tellis cho rằng việc Trung Quốc không giải thích rõ ý nghĩa “đường lưỡi bò” tại Biển Đông chính là trọng tâm trong sách lược “mơ hồ” của nước này tại khu vực này. Ashley J.Tellis cho rằng, với cách làm như vậy, Trung Quốc có thể tối đa hóa yêu sách của mình tại Biển Đông, đồng thời tối thiểu hóa những tiếng nói phản đối.
Ashley J.Tellis phát biểu: “Tôi đã quan sát diễn biến yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông trong 20 năm qua, tôi cho tằng điểm thú vị nhất chính là việc yêu sách của họ rất mơ hồ, tuy nhiên, việc đảm bảo cho những yêu sách này trở thành hiện thực lại không hề mơ hồ chút nào. Việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự và sức mạnh quốc gia để hiện thực hóa những yêu sách này là rất rõ ràng. Bạn có thể nhìn thấy sức răn đe đến từ Trung Quốc”.
 Hiện nay, Trung Quốc vẫn chưa tuyên bố rõ “đường lưỡi bò” là đường quy thuộc đảo hay là đường lãnh hải, hoặc là đường khu vực nội thủy. Ashley J.Tellis cho rằng, việc Trung Quốc từ chối dùng biện pháp trọng tài quốc tế để xác định tính chất “đường lưỡi bò” cũng xuất phát từ những toan tính như trên, không hi vọng trước khi sức mạnh có thể đủ sức đảm bảo cho những yêu sách của mình có thể thực hiện được, Trung Quốc sẽ phải chấp nhận những sự thỏa hiệp do nước ngoài áp đặt.
Ashley J.Tellis cho rằng, cũng do nguyên nhân này, hiện nay Trung Quốc đang cố gắng tránh bất cứ sự đối đầu nào với các cường quốc biển trên thế giới, do một khi thất bại, Trung Quốc sẽ buộc phải chấp nhận giải pháp do đối phương đưa ra. Ashley J.Tellis cho rằng cho rằng, Trung Quốc luôn giương cao khẩu hiệu đàm phán song phương, bởi những cuộc đàm phán như vậy luôn có lợi cho Trung Quốc.
Chiến lược biển của Trung Quốc phục vụ cho chiến lược quốc gia của nước này
Chuyên gia Toshi Yoshihara thuộc Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách của Mỹ chỉ rõ, chiến lược biển của Trung Quốc là để phục vụ cho chiến lược quốc gia của nước này.
Đọc thêm...

中国在南中国海的终极企图 (第一期)

08:23 |
中国军方近日宣布,首次向南中国海有争议的海域上空派出了先进的苏-35战机。几乎同一时间,东盟国家国防部长们表示,希望加快“南中国海行为准则”的磋商。但是,美国一名研究亚洲战略事务的专家指出,中国在南中国海的终极企图是随着军力的增加,取得对南中国海地区的最大控制权。他说,希望短时间内通过外交手段解决南中国海问题的人们注定会失望。
中国南中国海“秀肌肉”,美国区域军力相对衰落
中国空军星期三(27日)在官方微博上宣布了苏-35战机首飞南中国海的消息,并配了相关视频。官方还说,本次飞行属“联合战斗巡逻”,目的在于强化“远程作战能力”。有报道说,中国此举意在挑战美国军舰不久前在南中国海有争议水域的“自由航行”行动。
美国智库战略与预算评估中心高级研究员吉原恒淑(Toshi Yoshihara)不久前在华盛顿智库哈德逊研究所的一个有关南中国海问题的研讨会上指出,现在的中国俨然已经成为亚洲的“海上强国”。这是10多年前不敢想象的,甚至被人严重怀疑的事情,现在却已经成为亚洲的 “新战略现实”。
他说,未来几年,甚至几十年,中国在南中国海的“永恒”存在,已经是美国及其盟友不得不面对的“新常态”,南中国海将会“更拥挤”,亚洲的海事局面也将更具竞争性,更具对抗性,将对美国及其盟友在亚洲的利益产生影响,同时,美国及其盟友在亚洲行动的风险在增加。
然而,相对中国在南中国海日渐增长的军力,美军军力却有“相对衰退”之忧。
美国前第七舰队司令罗伯特·托马斯 Robert Thomas)在同一个研讨会上说,2009年以来,美国在南中国海的力量就“相对衰落”了。
这位退役海军中将解释说:“如果你把数字以及向某个特别地点投入资源的意愿考虑在内,这是相对‘衰落’。 我们在中学物理里学过,力等于质量乘以加速度。我们‘潜在的敌人’在这个特殊的地方累积了巨大的质量,而且他们的距离短。对我们来说,无论是从后勤还是其他角度,我们都是劳顿之师。”
前美国海军作战部长,退役海军上将盖瑞·拉夫黑德(Gary Roughhead)说,美国在南中国海的自由航行活动并没有体现美国的威慑力,只是一种声明,展示了美国对亚太地区的承诺。他还强调,美国在南中国海和东中国海仅仅部署一个第七舰队不符合时代需求。
不过,有最新的消息说,美国将派遣更多的海军陆战远征队前往亚太地区,以抵御中国的影响力。
解决南中国海问题是长期问题
中国在南中国海展示“肌肉”的同时,东盟轮值主席国新加坡的国防部长黄永宏27日说,东南亚国家联盟希望加快与中国之间的“南中国海行为准则”的谈判。不过,他又说,希望在一年内达成协定是不现实的。中国与东盟国家将于31日至2日在越南芽庄举行落实《南海各方行为宣言》第23次联合工作组会议。去年11月,中国和东盟就启动“南中国海行为准则”框架达成共识。
阿什利·泰利斯(Ashley J.Tellis)是美国智库卡内基国际和平研究院资深研究员。他的研究领域主要包括国际安全、国防和亚洲战略问题。他认为,中国是不会同意短时间内通过外交解决南中国海问题的。
他解释说:“中国在南中国海实施的是一种模糊战略,因为他们意识到,如果没有能力确保他们在南中国海的声索得以实现,从这一点来说,出于必要,南中国海也会是一个长期的问题(long game)。这不是短时间内可以解决的问题。任何人有这样的期待,或是期待可以外交解决南中国海问题注定是会震惊的。”
Đọc thêm...

Mục đích cuối cùng của Trung Quốc tại Biển Đông (phần 1)

08:22 |
Gần đây, quân đội Trung Quốc tuyên bố lần đầu tiên điều máy bay chiến đấu hiện đại S-35 ra Biển Đông. Gần như đồng thời, Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN tuyên bố hi vọng thúc đẩy tiến trình đàm phán COC. Tuy nhiên, một chuyên gia nghiên cứu các vấn đề chiến lược châu Á cho rằng, mục đích cuối cùng của Trung Quốc tại Biển Đông là, cùng với sự phát triển về năng lực quân sự, giành được quyền kiểm soát lớn nhất tại Biển Đông. Chuyên gia này cho rằng, hi vọng thông qua biện pháp ngoại giao giải quyết vấn đề Biển Đông là không tưởng.
Trung Quốc “khoe cơ bắp” ở Biển Đông, sức mạnh quân sự của Mỹ trong khu vực giảm sút
Ngày 7/2, quân đội Trung Quốc thông báo đã điều máy bay chiến đấu S-35 bay qua vùng trời Biển Đông. Thông báo cho biết, hoạt động này nằm trong phạm vi “tuần tra chiến đấu liên hợp”, mục đích là để nâng cao “năng lực tác chiến tầm xa”. Có thông tin cho rằng, hành động này của Trung Quốc nhằm thách thức hoạt động “tự do hàng hải” của Mỹ được thực hiện trước đó không lâu tại Biển Đông.
Chuyên gia Toshi Yoshihara thuộc Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách của Mỹ đã phát biểu tại một hội thảo về vấn đề Biển Đông do Viện Hudson vừa tổ chức rằng, hiện nay Trung Quốc đã trở thành cường quốc biển của châu Á. Chuyện mà 10 năm trước có rất ít người dám tưởng tượng tới này đã trở thành một “hiện thực chiến lược mới” tại khu vực châu Á.
Đọc thêm...

越南主动参加联合国维和行动

08:20 |
深入贯彻党、中央军委与国防部关于对外与国际融入观点与路线,近年来越南维护和平局积极主动参加联合国维和行动,采取有效措施,为提升国家和军队在国际舞台上的地位做出贡献。
《越南参加联合国维和行动》项目计划制定与实施将近四年后,国防部于20171122日颁布了成立越南维护和平局(简称为维和局)的命令,并从外交部接收了维和行动联合工作组。这是实际发展需求,同时也符合融入国际社会的趋势,满足新时期国防外交任务与要求,其中包括参加联合国维和行动的任务。作为国防部关于军队参加维和行动的指导委员会的常设机关,近年来越南维和局在中央军委与国防部的领导下,与中央和地方部门紧密配合,深入贯彻落实党、中央军委与国防部的决议,尤其是中央军委于20131231日发布关于2020年前及后续年融入国际于国防外交的806-NQ/QUTW号决议,提出可行有效的主张。
尽管新任务艰巨且繁重,官兵缺乏实践经验,要边工作边汲取经验,但是越南维和局官兵确定了政治决心,团结主动攻坚破难,努力奋进完成被交予的任务。值得一提的是,联合国维和行动参加力量的准备工作在符合国家和军队能力的基础上主动完成,确保周到、详细、全面等要求。从制定项目计划、人员筹备、外语培训、研究观摩、训练、实践训练到财务贡献等工作都顺利完成。值得注意的是,维和局主动做好参谋工作,一个人和单位两种形式组织开展在南苏丹与中非共和国的维和力量。为人道主义援助与协助、武装冲突和解谈判、所在地当局重建、指定区域稳定维护做出贡献,与9个国家签署双边国防合作备忘录,呼吁筹款资助越南联合国维和任务共2千万美元,被联合国与国际友人给予高度评价。
今后时间,应有效开展联合国维和行动,其中集中于以下基本措施:
第一,加大宣传教育工作力度,强化越南联合国维和力量的责任与意识。本着认识越深刻行动越科学有效的观点,维和局党委、指挥员集中对下属官兵进行宣传教育,让其充分认识联合国维和任务的目的、意义与重要性。教育内容要全面,集中于联合国维和行动的原则、机制和运作条例、党关于融入国际和国防外交的路线以及越南在双边多边国际关系之中的一贯立场,尤其是越南维和局的只能与任务以及维和力量的具体任务。集中贯彻,加大教育工作力度,让官兵充分认识并明辨联合国维和力量与军事联盟参与力量之间的区别,为维和力量提供理论依据和实践基础,让人民群众乃至世界热爱和平的朋友认识清楚越南“蓝色贝雷帽部队”的活动目标完全符合联合国宪章和国际法律,为维护国际及地区的和平做出贡献。其中,注重培养官兵过硬的政治本领和符合联合国宪章的原则不选边站队的中立态度,并认清维和任务实施过程中的有利不利因素。在此基础上,主动克服语言、环境、地貌、工作领域尤其是存在冲突地区的风险等方面的困难,从而确立随时牺牲的决心与精神,攻坚破难,奋发图强完成任务。
第二,集中提高维和力量的工作质量和效率。这是落实中央军委806号决议关于融入国际和国防外交内容的突破口。为了让这一内容向深度发展并取得务实有效成果,首先维和局党委和指挥员要本着数量齐全、机构成分合理的方针,注重高质量的维和人才培养工作,发扬主动创新负责精神,努力完成国际任务。据此,维和局实现外派培训与国内培训相结合,注重提高官兵的英语水平和特派团所在地本土语言水平及专业水平,尤其是对政治安全和军事情况复杂地区的适应能力。主动为党、政府出谋献策,本着与联合国安排相一致的原则在既定计划的基础上不断发展力量,扩大维和行动范围。进一步提高南苏丹特派团、中非共和国特派团在军医、工兵等方面上的运作效率,逐步扩展到其他领域。目前,应集中做好联合国常设机构的应选准备工作,提升参谋作战和训练水平,做好后勤保障工作,制定计划,妥善处理问题,向特派团做出综合汇报。值得注意的是,注重实践总结、理论发展,汲取经验教训,在此基础上,传授并采取有效措施,提高每批维和部队的运作效率。积极扩大与国际伙伴维和领域的双边防务合作,大力推动对外工作和国防外交工作向深度、实质、实效方向发展,争取国际友人的支持和帮助,为扩大和提高越南维和行动的效率创造前提条件。主动研究,制定计划,调整补充有关越南参加维和行动的法律政策和文件,为越南维和行动顺利开展并取得务实效果提供法律依据。
第三,在实施联合国维和任务中与有关机关加强配合。作为常设机关,维和局一方面为党、政府、中央军委与国防部出谋献策,另一方面直接协调配合,开展联合国维和任务,积极推动革新,提高与国内外有关机构和组织的配合效率。主动与外交部职能机构、国防部外事局、国防问题国际关系研究院以及外国伙伴紧密配合,实施与联合国的金融协议,购买装备设备,按法律规定和国防部规定接收管理资助资源。加强探讨关于联合国维和任务的科学研究工作,其中深入配合研究和发展、扩大工作领域,提高工作层级,加强协调配合和监督管理工作,并做好总结工作,对维和部队官兵提出适当的奖励或处分。注重与联合国有关机构及富有维和经验的国家紧密配合,推动人才培养,促进实践合作,开展力量参加维和行动。同时,与联合国传媒机构紧密配合,做好宣传工作,让世界各国认识清楚我国参加维和行动的正义立场、观点及目的。以联合国负责任的成员国资格积极推广越南人民和国家形象。从而,不断提高越南在国际舞台上的地位与威信,为国家全面发展提供前提条件并注入动力,为新形势下胜利实现我党关于融入国际、扩大对外合作尤其是国防对外合作作出重要贡献。(完)
作者:越南维和局局长 黄金凤 大校
Đọc thêm...

Hot (焦点)