中国在东海建造漂浮核电站计划:危险行为

10:30 |
美国国防部最近在向国会提交的中国军事活动报告中说,中国计划向一些其宣称拥有主权的东海岛屿提供核电,“漂浮核电站”将在2020年之前开始运行。
这份共145页的报告正文分为六章,另外单独列出6个专题和3个附件。在报告的摘要部分,五角大楼开门见山地称,中国的战略在于“实现民族复兴的中国梦,建立繁荣和强大的中国”。报告宣称,中国正在“利用自身日益增强的经济、外交和军事实力,建立区域性霸权,扩大国家的国际影响力”。在处理区域性的争议性议题时,中国倾向于使用“综合性的手段”,包括军事的和非军事的“胁迫手段”,来实现自己的利益。
中国10年来在350万平方公里的东海一些岛屿上填海造地,并部署军事人员。分析人士说,向这些岛屿供电将加强中国的主权声索。文莱、马来西亚、菲律宾、台湾和越南等其它声索方不具备这样的能力。
建造海上漂浮核电站在技术上可行,但是分析人士说,北京的这个举措会给美国一个新的理由向东海排出海军舰只,并警告中国。分析人士还说,一旦中国完成建造漂浮核电站,任何抗议都将无济于事。
一些学者认为,中国在东海安设漂浮核电站会加强中国主权声索的能力,但是将对环境构成威胁。海上漂浮核电站一旦发生泄漏,会引发重大生态灾难。东海经常发生台风。此外,海盗和恐怖分子也会构成威胁。
Đọc thêm...

Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông: Bước đi nguy hiểm

08:15 |
Bộ Quốc phòng Mỹ (16/8) công bố Báo cáo thường niên mang tên “Phát triển quân sự và an ninh liên quan đến Trung Quốc”, trong đó cho biết “Trung Quốc dự định đưa các nhà máy điện hạt nhân nổi tới cung cấp điện cho các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Hoạt động này được cho là sẽ bắt đầu trước năm 2020”. Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết, Bắc Kinh đã hoàn thành cơ sở hạ tầng trên bộ ở 4 tiền đồn chiếm đóng phi pháp thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, gồm đá Gạc Ma, đá Ken Nan, đá Ga Ven và đá Châu Viên. Sau khi Trung Quốc tuyên bố đã ngừng hoạt động bồi lấp và cải tạo trái phép (làm tăng thêm 12.94 km2 diện tích trên 7 thực thể chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam), Bộ quốc phòng Mỹ cho biết Bắc Kinh có thể đặt trạm hạt nhân để cấp năng lượng cho các thực thể này.
Ý đồ của Trung Quốc trong việc chế tạo nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển
Về mặt chính thống, Trung Quốc cho rằng chế tạo nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển để cung cấp điện cho các vùng duyên hải, vùng biên giới, vùng đảo xa bờ và các giàn khoan dầu khí gặp khó khăn về nguồn điện năng. Trung Quốc cũng biện minh cho rằng hành động của mình chỉ đơn thuần phục vụ mục đích phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân, cũng như cung cấp điện để khử mặn - lọc nước biển thành nước ngọt, làm đá phục vụ ngư dân ướp hải sản đánh bắt trên biển.
Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc tìm mọi cách phát triển điện hạt nhân trên biển nhằm cung ứng điện cho các hoạt động quân sự mà Trung Quốc mới triển khai trên các đảo ở Biển Đông, nhất là điện năng dành cho hệ thống radar tối tân của Bắc Kinh. Patrick Cronin, Giám đôc Chương trình An ninh châu Á - Thái Bình Dương, tại Trung tâm An ninh Mỹ Mới từng nhận định, “các nhà máy điện hạt nhân trên biển sẽ giúp quân đội Trung Quốc có nguồn năng lượng bền vững để thực hiện đầy đủ các hoạt động, từ cảnh báo sớm trên không tới các hệ thống điều khiển vũ khí tấn công và phòng thủ, hay chống ngầm”. Theo nhận định của giới chuyên gia, nếu Trung Quốc triển khai một trạm điện hạt nhân ở đảo Phú Lâm sẽ khiến Bắc Kinh giải quyết được nhu cầu điện cho “thành phố Tam Sa”, tạo điều kiện để nước này có thể triển khai được các loại hình radar, tên lửa hiện đại và nâng cao năng lực tác chiến cho hải quân Trung Quốc. Giáo sư Carlyle Thayer, Học viện Quốc phòng Australia cũng từng cảnh báo sau khi Trung Quốc triển khai các nhà máy điện hạt nhân trên biển, Bắc Kinh sẽ viện cớ thực thi các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho những trạm điện trên để tăng cường hiện diện quân sự khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng, mất kiểm soát.
Nhiều nước bày tỏ lo ngại về khả năng Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông
Người phát ngôn của Tổng thống Philippines Harry Roque (23/8) đã bày tỏ lo ngại về chương trình hạt nhân của Trung Quốc ở Biển Đông, cho biết Philippines lo ngại về việc đưa bất kỳ loại vũ khí hạt nhân nào vào lãnh thổ của Philippines vì ​​Hiến pháp Philippines đã quy định rõ rằng Philippines là một khu vực phi hạt nhân. Cùng quan điểm trên, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà cho biết, Việt Nam cho rằng duy trì hòa bình ổn định an ninh an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông là lợi ích chung và cũng là nghĩa vụ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy tất cả các bên đều có nghĩa vụ đóng góp cho mục tiêu này.
Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tìm cách biện minh cho hành động của mình ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao Trung Quốc (18/8) đã bác bỏ báo cáo này của Bộ Quốc phòng Mỹ, cho rằng Washington đang đưa ra những lời bình luận vô trách nhiệm về sự phát triển quốc phòng của Bắc Kinh, khẳng định Trung Quốc vẫn kiên trì theo đuổi con đường phát triển hòa bình và chính sách quốc phòng mang bản chất phòng vệ; ngang ngược cho rằng “mọi hành động của Trung Quốc trên biển Đông "là hợp pháp và không thể tranh cãi”. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm (17/8) ngang nhiên cho rằng Trung Quốc “kiên quyết phản đối báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ về các hoạt động quân sự và an ninh của Trung Quốc”, “cho rằng báo cáo này đã giải thích sai lệch về mục tiêu chiến lược của Trung Quốc và thổi phồng cái gọi là “mối đe dọa quân sự Trung Quốc”. Ngoài ra, ông Ngô Khiêm cũng khẳng định, Trung Quốc, “với tư cách là một nhân tố thúc đẩy hòa bình thế giới, đóng góp cho sự phát triển toàn cầu và duy trì trật tự quốc tế, kiên trì theo đuổi con đường phát triển hòa bình và chính sách quốc phòng mang bản chất phòng vệ”. Đồng thời, ông cũng nhấn mạnh rằng “những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh hiện đại hóa quân sự là nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển, cũng như bảo vệ hòa bình, ổn định và thịnh vượng; các hoạt động xây dựng hòa bình của Trung Quốc trên các đảo, đá ở Biển Đông là nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng yêu cầu của người dân, hoàn thành tốt hơn những nghĩa vụ quốc tế của mình”. Mặt khác, ông Ngô Khiêm chỉ trích Mỹ “là mối đe dọa thực sự đối với hòa bình và ổn định khu vực” khi “thường xuyên đưa các tàu chiến và máy bay tới Biển Đông dưới danh nghĩa “tự do hàng hải” và “gây căng thẳng”.
Dư luận cho rằng nếu Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông sẽ đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định trong khu vực
Khu vực Biển Đông là vùng biển hẹp, diện tích nhỏ, thường hay có bão lớn. Vì vậy, nếu Trung Quốc triển khai trạm điện hạt nhân nổi trên Biển Đông sẽ là cả một thách thức lớn trong việc đảm bảo an toàn cho các trạm điện hạt nhân, cũng như vấn đề rò rì hạt nhân. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Huân, Trưởng phòng sinh thái biển, Viện Hải dương học Nha Trang cho biết: “Trên đất liền, nhà máy điện hạt nhân được trang bị một hệ thống đặc biệt an toàn để ngăn chặn rò rỉ phóng xạ trong trường hợp gặp sự cố mà nhiều khi cũng không tránh khỏi. Đối với các nhà máy nổi lênh đênh trên biển, có nhiều rủi ro ngoài khả năng dự báo của con người như: bão, sóng thần, va chạm…thì xác suất xảy ra sự cố sẽ cao hơn”. Không những vậy, việc bảo đảm an toàn cho nhà máy phóng xạ trên biển là rất khó khăn, nhất là trường hợp mất điện. Và khi sự cố xảy ra, việc khắc phục hiện tượng rò rỉ phóng xạ trên biển là điều vô cùng khó so với trên đất liền vì lúc đó không dễ khoanh vùng và hạn chế lan truyền phóng xạ như trên mặt đất.
Trong khi đó, Phó Giáo sư Nguyễn Mộng Sinh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt nhận định, các lò phản ứng hạt nhận đặt trên phao nổi, tàu phá băng, trên tàu ngầm tiềm ẩn những nguy cơ về ô nhiễm môi trường xung quanh. Dùng nước làm mát thì phải có những biện pháp kỹ thuật để đề phòng việc thất thoát các chất phóng xạ, có thể sinh ra trong quá trình hoạt động của lò phản ứng ra môi trường. Dự án này chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường nếu Trung Quốc không có những kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, công nghệ hạt nhân của Trung Quốc hiện đã có tiến bộ, song vẫn còn hạn chế và chưa đủ trình độ để làm chủ công nghệ điện hạt nhân trên biển. Việc chưa kiểm soát, làm chủ công nghệ mà triển khai chế tạo, hoặc đưa vào sử dụng trạm điện hạt nhân nổi trên biển sẽ đe dọa trực tiếp đến người dân các nước ven biển.
Một số chuyên gia cho rằng nếu Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông mà xảy ra sự cố rò rỉ phóng xạ, nó sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân ven biển, hoạt động tự do hàng hải trong khu vực và trực tiếp phá hủy hệ sinh thái ở Biển Đông: (1) Khi bị rõ rỉ hạt nhân, bão và gió ở Biển Đông sẽ rất nhanh chóng tán phát bui hạt nhân vào đất liền, khiến người dân ven Biển Đông sẽ phải đối diện với nguy cơ phơi nhiễm phóng xạ. (2) Môi trường sinh thái ở Biển Đông, đặc biệt là nguồn hải sản và sinh vật biển sẽ bị tàn phá, hủy diệt hàng loạt. (3) Khi bụi phóng xạ bị tán phát trong không khí cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tự do hàng hải, giao thông thương mại trên Biển Đông sẽ bị tê liệt hoàn toàn.
Đọc thêm...

将旅游业武器化: 中国外交新手段

14:30 |
太平洋小国帕劳拥有1,300多种鱼和700种珊瑚,吸引游客。有报道说帕劳遭受北京以旅游为武器进行的打击。
虽然将旅游业武器化是否是北京政府的发明目前或许还有争议,但中国显然是当今世界最喜欢将旅游业作为武器来对他国实施外交惩罚的国家。
这种手段如此神奇,以至于美国以向社会大众进行重大新闻科普为己任的网站阿克西奥斯(Axios)要在826日发表一篇报道,标题是“武器化的旅游业:中国动用(其外出旅游的)公民来施加外交压力。”
阿克西奥斯网站所科普的新闻是路透社在819日发表的一篇新闻报道。该报道说的是太平洋小国帕劳眼下正在遭受北京以旅游为武器进行的打击。
为了迫使台湾在全世界仅存的18个邦交国之一帕劳就范,接受中国的所谓“一个中国”原则,北京当局将帕劳列为中国旅游者的禁地。北京的这一举措使先前接待大批来自中国的游客的帕劳损失大笔的旅游收入,旅馆房间空虚,旅游船闲置,旅行社关门。
北京先前也曾经对台湾动用将旅游武器化的施压方式,使台湾旅游业者苦不堪言,但台北政府和台湾民众拒绝因此向北京投降。截至目前,面对北京将旅游武器化的施压方式,岛国小国帕劳也拒绝投降。
去年,北京也动用将旅游业武器化的手法对韩国施加压力,中国旅行社停止办理赴韩国的团体旅游。北京试图以此迫使韩国屈从中国的要求,撤销部署美国反弹道导弹以防御北京的盟友平壤公开宣扬的导弹威胁的决定。
京对韩国如此施压在韩国引起强烈的反弹。韩国媒体纷纷谴责和抨击北京还是老大帝国心态不改动辄就喜欢欺负韩国,谴责北京卑鄙下作,欺软怕硬,因为日本也接受美国的导弹防御系统防范平壤威胁,但中国却在这个问题上对日本和美国不敢说不。
来自中国的最新报道说,尽管韩国迄今为止坚持接受美国的导弹防御系统,北京显然已经放软了身段,大批来自中国大陆的游客又出现在韩国。中国官方的《环球时报》报道说,韩国旅游组织报告说,在今年6月,总共有379,891名中国游客访问了韩国,比去年同期增加了49%
Đọc thêm...

"Vũ khí hóa" du lịch: Thủ đoạn ngoại giao mới của Trung Quốc

10:30 |
Đảo quốc nhỏ Palau ở Thái Bình Dương đang bị mắc kẹt giữa cuộc chiến ngoại giao giữa Trung Quốc và Đài Loan.
Cuối năm ngoái, Trung Quốc cấm du khách nước này tới Palau, một trong 18 đồng minh còn lại của Đài Loan trên toàn thế giới. Động thái này khiến quốc đảo phụ thuộc du lịch chịu tác động không nhỏ khi các phòng khách sạn trống rỗng, thuyền du lịch "đắp chiếu" và nhiều công ty du lịch đóng cửa. Hãng hàng không Palau Pacific Airways vào tháng 7 thông báo chấm dứt các chuyến bay đến Trung Quốc.
Trước lệnh cấm trên, công dân Trung Quốc chiếm khoảng một nửa du khách đến Palau. Trong số 122.000 du khách đến đây năm 2017, có 55.000 người đến từ Trung Quốc và 9.000 người đến từ Đài Loan. Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng nhân cơ hội xây khách sạn, mở rộng kinh doanh và kiểm soát các khu bất động sản ven biển lớn.
Khi được Reuters hỏi lệnh cấm nói trên có phải là cách để Trung Quốc gây áp lực buộc Palau cắt đứt quan hệ với Đài Loan, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ tuyên bố: "Nguyên tắc "Một Trung Quốc" là nền tảng chính trị và tiền đề để Trung Quốc duy trì, phát triển mối quan hệ hợp tác thân thiện với tất cả quốc gia trên thế giới". Nguyên tắc này nói rằng Đài Loan là một phần không thể tách rời của Trung Quốc.
Trong khi đó, Cơ quan Ngoại giao Đài Loan cho biết Trung Quốc đã lôi kéo 4 quốc gia có quan hệ ngoại giao với Đài Bắc trong 2 năm qua bằng cách cung cấp các gói hỗ trợ và đầu tư hào phóng. Cơ quan này khẳng định Đài Loan vẫn sẽ làm việc với các quốc gia thân thiện để duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
Trong khi đó, Tổng thống Palau Tommy Remengesau Jr. cho biết không có thông tin chính thức về việc hạn chế du lịch từ Bắc Kinh. Theo ông Remengesau, Palau hoan nghênh đầu tư và du lịch Trung Quốc nhưng cho rằng các nguyên tắc, tư tưởng dân chủ của chính quyền Palau hiện tại gắn kết chặt chẽ với Đài Loan hơn. Đối mặt tình trạng khách Trung Quốc sụt giảm, ông Remengesau cho biết Palau tập trung vào nhóm du khách chi mạnh tay hơn là số lượng du khách.
Các cựu quan chức Palau cho rằng Bắc Kinh đang tìm cách củng cố ảnh hưởng tại Thái Bình Dương trước khi các hiệp ước hỗ trợ giữa Mỹ, Liên bang Micronesia, Quần đảo Marshall, Palau lần lượt hết hạn trong 2 năm 2023 và 2024. Mỹ hiện tài trợ khoảng 200 triệu USD/năm cho 3 quốc gia này cũng như chịu trách nhiệm bảo vệ họ.
Tháng 12 năm ngoái, Mỹ đồng ý hỗ trợ 124 triệu USD cho Palau đến năm 2024 nhưng chưa công bố bất kỳ kế hoạch nào nhằm gia hạn các hiệp ước trên. Các cựu quan chức Liên bang Micronesia tiết lộ Bắc Kinh đang muốn mở rộng sáng kiến Vành đai và Con đường tới Palau và có thể cung cấp một nguồn đầu tư quan trọng cho quốc đảo này sau khi hiệp ước với Mỹ chấm dứt.
Đọc thêm...

2018年日本防卫白皮书:中国朝鲜是重要威胁

13:00 |
日本防卫省0828日发布新年度《日本防卫白皮书》,新财年国防预算预计增加0.8%。朝鲜与中共仍被列为对日本构成重要威胁的关注对象。
新年度日本《防卫白皮书》对川金会表示肯定,但指出朝鲜是日本最直接的威胁。
日本防卫大臣 小野寺五典:〝朝鲜拥有数百导弹,覆盖我们领土的任何地方,而且仍然在部署。 他们还进行了核试验和类似的弹道导弹发射。 我们看到他们在核导弹计画和作战方面取得进展。〞
不过报告中有关外国防卫政策部分,最大篇幅用来分析中国。中共政权希望通过高压方式、达成〝既成事实〞目标的海洋军事活动,引发强烈担忧,包括其在东海和东海的行为。
哥伦比亚大学政治博士 李天笑:〝中日关系突然之间转热,在这种情况下,日本发布《防卫白皮书》中将中共政权的威胁放在一个非常重要的地位来描述,这里面的含义非常清楚。他知道中共政权是要和日本拉关系来制约美国。再一个,尽管日本也希望中日关系达到一个比较稳定和谐的状态,但是他对中共政权的性质是非常清楚的,是从中共政权的性质来看中共政权的对外扩张的。〞
白皮书指出,中国的东风21、东风26弹道导弹,可能已常载核弹头,能攻击包括日本在内的亚太地区
预计日本新一年国防预算会在目前约472亿美元的基础上增加0.8%。为加强防御弹道导弹的能力,防卫省将引进美国的〝陆基神盾系统〞(Aegis Ashore)。美日之前加强了导弹拦截资讯的共享。
Đọc thêm...

Sách Trắng Quốc phòng Nhật Bản năm 2018: Trung Quốc và Triều Tiên là mối đe dọa quan trọng

11:00 |
Ngày 28-8, Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2018 của nước này, trong đó đưa ra những lo ngại về an ninh của Nhật Bản, đồng thời đề cao tầm quan trọng của quan hệ đồng minh với Mỹ...
Theo Reuters, trong Sách Trắng Quốc phòng thường niên được công bố vào ngày 28-8, Nhật Bản vẫn coi Triều Tiên là một mối đe dọa nghiêm trọng về mặt an ninh, dù cho Bình Nhưỡng đã ngừng các vụ thử tên lửa đạn đạo cũng như nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã cam kết phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.  “Chúng ta cần theo dõi sát Triều Tiên để xem những hành động cụ thể mà họ thực hiện nhằm từ bỏ vũ khí hạt nhân và tên lửa", Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản nhấn mạnh.
Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Tokyo được công bố sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đột ngột hủy chuyến thăm lần thứ 4 được lên kế hoạch từ trước của Ngoại trưởng Mike Pompeo tới Bình Nhưỡng trong tuần này. Chuyến thăm ông Mike Pompeo được xem như một phần trong những nỗ lực của Mỹ nhằm buộc Triều Tiên từ bỏ vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo sau cuộc gặp thượng đỉnh lịch sử Mỹ-Triều ở Singapore hồi tháng 6 vừa qua. Về phần mình, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố, nước này sẽ không thay đổi quan điểm quân sự đối với Triều Tiên, cho tới khi Tokyo nhìn thấy các bước đi cụ thể, không thể đảo ngược và có thể xác minh hướng tới mục tiêu giải trừ hạt nhân. Sách Trắng Quốc phòng Nhật Bản nêu rõ: “Chúng ta cần theo dõi chặt chẽ Triều Tiên, để xem nước này có hành động cụ thể nào nhằm từ bỏ vũ khí hạt nhân và tên lửa của họ”. Theo Sách Trắng Quốc phòng 2018, Triều Tiên đã tiến hành 3 vụ thử hạt nhân và phóng thử 40 tên lửa đạn đạo kể từ đầu năm 2016, trong đó có một số vụ thử đã bay qua vùng trời Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản cũng cho rằng, các hoạt động quân sự tiềm ẩn nguy cơ đe dọa an ninh tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang gia tăng. Văn bản nêu rõ Trung Quốc là "mối quan tâm lớn" của nước này trong việc duy trì sự ổn định và an ninh sau khi Bắc Kinh gia tăng sự hiện diện trên các vùng đại dương. Sách Trắng nhận định: “Trong bối cảnh quyền lực của Trung Quốc gia tăng, sức mạnh quân sự của nước này cũng gia tăng nhanh chóng”. Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản cũng lưu ý tới các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trong quá trình triển khai sáng kiến "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc gắn với các hoạt động ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Một vấn đề đáng chú ý được Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản nhấn mạnh là việc tăng cường liên minh quân sự của nước này với Mỹ. Tài liệu trên nêu rõ: "Liên minh Nhật Bản và Mỹ là cơ sở cho nền hòa bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, góp phần vào sự ổn định của tình hình khu vực". Nói đến vấn đề này, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã đưa ra dẫn chứng về quan hệ hợp tác giữa Tokyo và Washington trong tiến trình phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên… Ngoài ra, hồi tháng trước, Nhật Bản tuyên bố nước này đã lên kế hoạch mua hai trạm radar phòng thủ tên lửa Aegis Ashore của Mỹ để tăng cường năng lực phòng thủ. Thiết bị này sẽ được triển khai cùng các tên lửa đánh chặn từ năm 2023.
 Về quan hệ với Nga, Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản nhấn mạnh phải "duy trì giám sát" các hoạt động quân sự của Nga, liên quan tới việc Moscow triển khai các hệ thống tên lửa đối hạm năm 2016 tại hai quần đảo đang có tranh chấp với Tokyo. Mặt khác, Nhật Bản vẫn coi trọng sự thúc đẩy hoạt động trao đổi quốc phòng với Nga nhằm ngăn chặn tình huống khẩn cấp. "Thông qua hoạt động trao đổi quốc phòng Nhật Bản-Nga, mối quan hệ tin cậy với Nga như một đối tác quan trọng trong việc đảm bảo an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương được củng cố”, Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản khẳng định.
Bên cạnh đó, liên quan tới vấn đề an ninh mạng, Sách Trắng Quốc phòng 2018 của Nhật Bản cũng bày tỏ quan ngại về nguy cơ hoạt động chống phá của tin tặc trong không gian mạng và vũ trụ.
Đọc thêm...

九段线变成实线还是没有法理性质

14:30 |
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。
从国际法的角度来看实线有什么意义
假如这张地图确实存在(这很难相信,因为伪造类似证据,中国多次放出烟幕)的话,将会是什么样呢?
为了解毒这条“实线”(连续线)的法理问题,必须寻求三个问题的答案:第一,“实线”地图能否正式成为中国政府的领土主权主张?第二,中国学者根据1951 年的一张地图研究“实线”有何意义?第三,这条“实线”是否能成为中国海上“国家边界线”?
“实线”地图是否是中国政府的领土主张
首先,我们要问九段虚线或“实线”地图能否成为中国声索的领土?
我们援引西基利/塞杜杜岛案法官边渡的话来回答这个问题:“领土主张只能在政府的明确意图与显示在地图上的情况下提出。地图本身若没有其他辅助证据支撑则不能为政治主张辩护”。
另外也可以参考国际法庭审理布吉纳法索诉马里案的裁决:“地图可能具有的价值与法庭以不同方式作出的与地图无关的裁决的价值相差无几,除非地图体现了国家意志,地图本身不能被视为边界线的证据……”
这样,我们看到,如果“捡”到的地图(而这张地图未必是真的)没有明确宣布这张地图体现中国政府的主张的话,那么它不能做为领土主张。领土主张必须是公开地明确地写在国家正式声明中,而非几位中国“学者”自己“创造”出来。
1951年出版的地图中的“实线”的含义是什么
中国学者在这个场合表示刚“发现”1951年出版的“实线”地图。这有什么意义呢?
1951年为时标,中国学者想让它与中国政府此前公布的线内海域历史权声明相“吻合”,这个时间点早于《联合国海洋法公约》获得签署的1982年。1982年《联合国海洋法公约》获得签署和生效后,所有沿海国家的海洋权与海洋利益概念都在《联合国海洋法公约》中有所规定。1982年《联合国海洋法公约》被视为全世界的“海洋宪法”。若依照1982年《联合国海洋法公约》,中国无法为其模糊称谓的九段线辩解。因此为驳斥《联合国海洋法公约》照样适用于中国的说法,中国对东海海域提出了“历史权”主张。“历史权”可简单地理解为中国对这片海域的资源拥有优先特权。说是“历史”因为中国认为他早就在历史上实现了(主权),而且早于1982年《联合国海洋法公约》的问世,所以在这个场合他可以优先不遵守1982年《联合国海洋法公约》的规定。
不过,我们还记得仲裁庭2016712日在菲律宾诉讼中国案中就这个问题作出的裁决:“中国对东海资源的历史权范围,此权被取消因它不符合《联合国海洋法公约》关于专属经济区的规定。仲裁庭认为,历史上中国与其他国家渔民曾经使用东海各岛屿,但没有任何证据表明中国一个国家曾在历史上控制这片海域及其资源。因此,仲裁庭得出结论:中国对九段线内资源的历史权主张没有法理证据。
“实线”能否成为中国在东海的“国家边界线” 
接下来的问题是这条实线能否成为中国在东海的国家边界线?此前,国际分析家的一个论点是“九段线”是随便画出来的,没有坐标而且还是虚线,所以不能体现作为严肃的边界线。
也许因为这个原因,所以中国学者最近在政府的资助下努力“发现”实线地图来补救此缺陷。
我们再回到菲律宾诉讼中国案,根据1982年《联合国海洋法公约》第7 附件成立的仲裁庭上,菲律宾律师证明中国对“九段线”有不同的解释,其中的一个解释是“九段线是中国海上国家边界线”。但是,根据中国政府的官方声明,特别是自2014年后中国政府正式宣布:“承认和尊重国际法要求的在九段线内的自由航海与自由航空权”。这样,中国政府间接驳斥了九段线是国家边界线的说法,无论它是虚线还是实线,因为根据国际法,在国家边界线内的海域从来没有自由航海与自由航空。
菲律宾的这个论点获得仲裁庭的认可。此后我们看到中国政府的正式声明间接驳斥了它是“国家海上边界线”,中国学者却拼命证明它是“国家边界线”。对于国际法来说,政府声明与几个学者关于领土的说辞哪个更具有法理性质。
结论
几个中国学者最近关于“实线”地图之说引起舆论哗然,表明中国独霸东海的欲望从未衰弱,尽管遭到了2016年仲裁庭裁决泼的一盆冷水。
中国仍然在千方百计地把“九段线”变成既成事实,其中一个方法是“发现”1951年出版的“实线”地图。
中国所谓的九段线主张丝毫没有法理性质,所以无论如何辩解都不会得到国际法的承认,在国际法当然就没有一席之地。
中国想凭借自己的力量“颠倒黑白”,但在现实世界是难以得逞的。任何强国都会衰弱,国际法却不断在其基础上发展,所以像九段线这样没有国际法基础的声明,无论是虚线还是实线都不会得到国际法的承认。
Đọc thêm...

“Đường lưỡi bò liền nét”- tình tiết mới về tham vọng cũ của Trung Quốc

12:30 |
Báo chí Hồng Kông mới đây tiết lộ một dự án nghiên cứu hải dương của Trung Quốc, chủ trương vạch ra “đường biên giới mới” trên Biển Đông, nhằm “tạo điều kiện cho nghiên cứu” về tài nguyên và “gia tăng sức nặng” cho các đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh tại khu vực biển này.
Đường biên giới được đề xuất có hình dạng của một đường liền mạch chính xác hợp vào với “đường lưỡi bò”, hay còn gọi là đường chữ U, hay đường chín đoạn, vốn vạch ra một vùng rộng lớn mà Trung Quốc tuyên bố lập lờ về chủ quyền tại khu vực Biển Đông giàu tài nguyên khoáng sản và năng lượng. Báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng dẫn lời một nhà khoa học kỳ cựu đã tham gia dự án nghiên cứu khoa học tự nhiên tại khu vực tranh chấp do chính phủ tài trợ cho biết điều này sẽ mang lại một sự diễn giải rõ ràng hơn về những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Theo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, đường biên giới mới này sẽ chia tách Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam, chạy xuống phía Nam vào vùng biển do Malaysia tuyên bố chủ quyền, rồi lại quay một vòng chữ U lên phía Bắc dọc theo bờ biển phía Tây của Philippines, và kết thúc ở Đông Nam Đài Loan.
Đường này bao trùm các nhóm cấu trúc trên biển Đông, bao gồm Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Bãi cạn James và Bãi cạn Scarborough. Đường này nếu được chấp nhận, có thể tạo cớ cho Trung Quốc đòi hỏi quyền thực hiện các hành vi như đánh bắt cá, thăm dò và khai thác các nguồn năng lượng và khoáng sản, cũng như xây dựng các căn cứ quân sự trong vùng biển bên trong đường này.
Các nhà nghiên cứu trên của Trung Quốc còn tuyên bố là nghiên cứu của họ dựa trên một bản đồ thể hiện đường lưỡi bò liền nét được xuất bản từ năm 1951.
Tại sao Trung Quốc lại tung ra nghiên cứu đó vào lúc này?
Thực ra, đây là nỗ lực mới nhất của Bắc Kinh nhằm khôi phục hình ảnh của mình sau thất bại về mặt pháp lý, vào năm 2016, trong vụ kiện tại Tòa Trọng tài ở La Haye. Bắc Kinh phủ nhận phán quyết này, coi phán quyết chỉ là “một tờ giấy lộn”, và “hoàn toàn vô giá trị”.Về mặt chính thức, chính quyền Bắc Kinh áp dụng chính sách “ba không”: không tham gia (quá trình phân xử), không thừa nhận (tính hợp pháp của tòa), và không tuân thủ (phán quyết). Tuy nhiên, từ sau phán quyết này, Trung Quốc đã âm thầm điều chỉnh các căn cứ cho tuyên bố chủ quyền của mình bằng việc liên tục đưa ra các tài liệu pháp lý đối với tấm bản đồ có “Đường 9 đoạn”. Từ năm 2017, nước này thậm chí còn đưa ra một học thuyết mới, cụ thể là khái niệm “Tứ Sa” về Biển Đông.
Trong học thuyết này, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và bãi ngầm Macclesfield với tên gọi lần lượt là Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Thay vì được xem là một nhóm các thực thể tranh chấp, Trung Quốc coi mỗi nhóm đảo và đá ngầm này là một quần đảo gồm nhiều thực thể khác nhau, với ranh giới biển cụ thể, có chủ quyền và quyền được xác lập xung quanh đó một vùng đặc quyền kinh tế.
Học thuyết về “Tứ Sa” của một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đã bị giới khoa học quốc tế phản đối và chỉ trích. Cho nên, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang “nỗ lực” tìm kiếm các cách giải thích pháp lý mới cho tham vọng này của Trung Quốc. Chính vì vậy, đã dẫn đến việc “phát hiện” một bản đồ có “đường lưỡi bò liền nét” như đã nêu.
Nhiều chuyên gia pháp lý như Giáo sư Julian Ku, hiện đang làm việc tại Đại học Hofstra và học giả Chris Mirasola, đang công tác tại Đại học Harvard, đã khẳng định rằng “các tuyên bố pháp lý mới của Trung Quốc cũng chẳng có nhiều giá trị hơn các tuyên bố về đường 9 đoạn trước đây”.
Thực chất,  “tấm bản đồ mới” mà các học giả Trung Quốc đưa ra chỉ là một nỗ lực “bình mới rượu cũ” cho tham vọng chiếm đoạt toàn bộ khu vực biển Đông của Chính phủ Trung Quốc mà thôi.
Đường liền nét dưới góc độ luật quốc tế sẽ có ý nghĩa như thế nào?
Giả định rằng bản đồ này là có thật (điều này khó tin lắm, vì việc ngụy tạo các bằng chứng kiểu này, Trung Quốc đã đưa ra rất nhiều để tung hỏa mù) thì sao?
Để tìm hiểu về các vấn đề pháp lý cho “đường lưỡi bò liền nét” này, ta cần đi tìm câu trả lời cho ba vấn đề: Thứ nhất, với chỉ riêng bản đồ “đường lưỡi bò liền nét” có tạo ra một yêu sách chính thức về lãnh thổ của Chính phủ Trung Quốc? Thứ hai, việc các nhà nghiên cứu Trung Quốc tuyên bố nghiên cứu về đường liền nét dựa trên một bản đồ có từ năm 1951 với hàm ý gì?
Thứ ba, liệu “đường lưỡi bò liền nét” này có thể trở thành “đường biên giới quốc gia trên biển” của Trung Quốc?
Bản đồ “đường liền nét” có phải là một yêu sách lãnh thổ của Chính phủ Trung Quốc?
Trước hết, dù là bản đồ đường đứt khúc, hay bản đồ nét liền đi nữa, bản thân bản đồ đó có tạo thành một yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc?
Thay cho trả lời câu hỏi này, ta có thể viện dẫn ý kiến của thẩm phán Oda trong vụ Kasikili/Sedudu: “…một yêu sách lãnh thổ chỉ có thể được đưa ra với ý định rõ ràng của chính phủ, điều có thể được phản ánh qua các bản đồ. Bản thân bản đồ, nếu không có các bằng chứng hỗ trợ khác không thể biện hộ cho một yêu sách chính trị”.
Ta cũng có thể xem trích dẫn từ phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ)trong vụ Burkina Faso/Republic of Mali:
“Các bản đồ có thể có giá trị không hơn giá trị các bằng chứng chứng thực cho một phán quyết mà Tòa đã đưa bằng các cách khác không liên quan đến các bản đồ đó, ngoại trừ khi các bản đồ thể hiện ý chí của quốc gia, bản thân các bản đồ không thể được xem là bằng chứng cho một đường biên giới.”
Như vậy, chúng ta thấy rằng, nếu chỉ “lượm” được một bản đồ (mà chưa chắc bản đồ ấy là thật), không có sự tuyên bố rõ ràng rằng bản đồ đó thể hiện yêu sách của chính phủ Trung Quốc thì nó không thể gọi là một yêu sách về lãnh thổ được. Yêu sách lãnh thổ phải được công khai, rõ ràng với tuyên bố chính thức của nhà nước, chứ không phải của mấy nhà “nghiên cứu” của Trung Quốc tự “sáng tác” ra.
“Đường liền nét” dựa trên bản đồ xuất bản năm 1951 có hàm ý gì?
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc trong trường hợp này đã cho biết là “mới phát hiện” ra một bản đồ có “đường lưỡi bò liền nét” được xuất bản từ 1951. Điều này có ý nghĩa gì?
Với các mốc năm 1951 này, các nhà nghiên cứu Trung Quốc muốn cho nó “phù hợp” với các tuyên bố trước đây của chính phủ Trung Quốc, về “quyền lịch sử” đối với vùng biển bên trong đường này. Vì thời điểm này xuất hiện trước khi Công ước luật biển 1982 được ký kết. Bởi vì từ khi Công ước luật biển 1982 được ký kết và có hiệu lực, mọi khái niệm về quyền và lợi ích biển của các quốc gia ven biển đều được quy định hết trong Công ước. Công ước Luật biển 1982 được coi là “Hiến pháp về biển và đại dương” trên phạm vi toàn thế giới. Nếu dựa trên Công ước Luật biển 1982 thì Trung Quốc không thể biện minh cho cái họ gọi lập lờ là “đường lưỡi bò” này.
Chính vì vậy, để bác bỏ việc áp dụng Công ước Luật biển 1982, Trung Quốc đưa ra yêu sách về “quyền lịch sử” của họ trên vùng biển này. “Quyền lịch sử” được hiểu một cách đơn giản là các đặc quyền ưu tiên của Trung Quốc đối với các tài nguyên trong vùng biển này, “lịch sử” là bởi vì Trung Quốc cho rằng họ đã thực hiện từ lâu trong lịch sử, trước khi Công ước luật biển 1982 ra đời, cho nên họ sẽ được ưu tiên không tuân theo quy định của Công ước Luật biển trong trường hợp này.
Tuy nhiên, chúng ta còn nhớ Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã phán quyết về vấn đề này ngày 12/6/2016:  “trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Toà cũng nhậnthấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.”
“Đường lưỡi bò liền nét” có thể là “đường biên giới quốc gia của Trung Quốc” trên biển Đông?
Vấn đề tiếp theo là liệu đường lưỡi bò liền nét này có thể trở thành đường biên giới quốc gia của Trung Quốc trên Biển Đông? Trước đây, một trong những luận điểm của các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng “đường lưỡi bò” được vẽ tùy tiện, không có tọa độ để xác định, và là một đường đứt khúc nên không thể hiện được là một đường biên giới nghiêm chỉnh.
Chắc với lý do đó, cho nên gần đây, các nhà nghiên cứu Trung Quốc được sự hỗ trợ từ chính phủ đã cố gắng “phát hiện” bản đồ liền nét để khắc phục điểm yếu này.
“Đường lưỡi bò liền nét”- tình tiết mới về tham vọng cũ của Trung Quốc
Chúng ta cùng trở lại vụ Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển 1982.
Trong quá trình tranh luận trước Tòa, các luật sư của Philippines chứng minh rằng: Trung Quốc có một số cách diễn giải về “đường lưỡi bò”. Một trong các sự diễn giải đó chính là coi “đường lưỡi bò” là “đường biên giới quốc gia trên biển” của Trung Quốc. Tuy nhiên, dựa trên các tuyên bố chính thức của chính phủ Trung Quốc, đặc biệt giai đoạn từ năm 2014 trở đi, Chính phủ Trung Quốc đãchính thức tuyên bố :“thừa nhận và tôn trọng quyền tự do hàng hải và tự do hàng không mà luật quốc tế yêu cầu bên trong đường chín đoạn”.
Bằng việc thừa nhận chính thức quyền tự do hàng hải và tự do hàng không bên trong đường lưỡi bò, Chính phủ Trung Quốc đã gián tiếp bác bỏ việc coi đường này là đường biên giới quốc gia, cho dù nó là đứt khúc, hay liền nét. Bởi vì, theo các quy định của luật pháp quốc tế, không thể có chuyện tự do hàng hải và tự do hàng không trong khu vực biển nằm bên trong đường biên giới quốc gia được.
Lập luận này của phía Philippines đã được Tòa chấp thuận. Tới đây chúng ta có thể thấy, trong tuyên bố chính thức của Chính phủ Trung Quốc đã gián tiếp bác bỏ đó là một “đường biên giới quốc gia trên biển”, còn các nhà nghiên cứu Trung Quốc thì ra sức chứng minh đó là “đường biên giới quốc gia”. Trong luật quốc tế, tuyên bố của Chính phủ với phát biểu của mấy nhà nghiên cứu về lãnh thổ, cái nào có sức mạnh pháp lý hơn?
Như vậy, câu chuyện về tuyên bố gây ồn ào dư luận gần đây của một số nhà nghiên cứu Trung Quốc về một bản đồ với “đường lưỡi bò liền nét” cho thấy tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc chưa bao giờ phai nhạt, cho dù đã bị dội một gáo nước lạnh với phán quyết của Tòa Trọng tài hồi năm 2016.
Tuy vậy, Trung Quốc vẫn ráo riết tìm mọi cách thực hiện trên thực tế để biến “đường lưỡi bò” thành hiện thực. Và một trong những cách đó là họ đã “phát hiện” ra bản đồ có “đường lưỡi bò liền nét” mà họ nói rằng đã xuất bản từ năm 1951.
Tuy nhiên, bản chất của cái gọi là yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc nó không có tính chất pháp lý nào, cho nên dù có biện minh kiểu gì đi nữa cũng không được luật quốc tế chấp nhận, và đương nhiên, nó sẽ không có chỗ đứng trong luật quốc tế.
Mặc dù Trung Quốc với sức mạnh của mình, mưu toan “đổi trắng thay đen”, nhưng điều này không thể làm được trong thế giới hiện đại. Mọi cường quốc rồi cũng suy tàn, nhưng luật quốc tế thì luôn phát triển trên những nền tảng cơ bản. Cho nên, những tuyên bố không có nền tảng luật quốc tế như “đường lưỡi bò”, dù liền nét hay đứt khúc, sẽ không bao giờ được luật quốc tế công nhận.
Đọc thêm...

为越美关系正常化作出重要贡献的美参议员约翰·麦凯恩去世

15:47 |
为越美关系正常化作出重要贡献的美国资深共和党参议员约翰·麦凯恩于美国时间825日去世,享年81岁。
麦凯恩本人曾在美国侵略越南战争中服役。他于1967年参加袭击越南民主共和国(越南北部)的滚雷行动(Rolling Thunder)。他的飞机于19671026日被击落,麦凯恩被俘。 1973年,他在交换囚犯时被送回美国。
从越南返回的麦凯恩加入政界,是第一批通过人道主义活动,如消除战争遗留的爆炸物、搜寻失踪人员、协助残疾人、清除二恶英污染地区等,推动美越关系正常化的人之一。
1994年,美国参议院批准了麦凯恩和参议员约翰克里提出的决议,呼吁结束对越南的经济制裁,为一年后两国关系正常化铺平了道路。
随着双边关系正常化,麦凯恩和克里多次访问越南,以解决美国失踪人员(POW / MIA)的问题。
除了推动与越南关系正常化外,参议员麦凯恩还支持露旅美越南人,将其视为美国与越南政府之间的桥梁。
越南驻美国大使范光荣于2016121日与华盛顿参议员会晤时,赞扬了参议员对两国友好合作关系的巨大贡献。
麦凯恩回答说,他一直重视美越关系,对他而言,越南在该地区具有重要的地位和作用。
麦凯恩是为越美关系正常化作出重要贡献的人,促进两国关系发展成为全面伙伴关系,在各领域取得了显着进步,为两国带来实实在在的利益。
Đọc thêm...

John McCain - Người nhiệt thành thúc đẩy tái thiết quan hệ Việt - Mỹ

05:45 |
Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Mỹ John McCain trút hơi thở cuối cùng sáng 26-8 (giờ Việt Nam) ở tuổi 81 vì bệnh ung thư não.
Không chỉ là một nhân vật có ảnh hưởng trong suốt hơn 35 năm hoạt động chính trị, John McCain còn là một người bạn đặc biệt của Việt Nam, đi đầu trong hàn gắn vết thương chiến tranh, ủng hộ bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ và thúc đẩy phát triển quan hệ hai nước tới những ngày cuối cùng của cuộc đời.
John McCain sinh ngày 29-8-1936 tại căn cứ quân sự Coco Solo, vùng Kênh đào Panama, lãnh thổ chưa hợp nhất của Mỹ giai đoạn 1903 - 1979. Với truyền thống gia đình gồm ông nội và bố đều là Đô đốc Hải quân, John McCain tốt nghiệp Học viện Hải quân Mỹ năm 1958 và phục vụ trong Hải quân đến năm 1981.
John McCain kết hôn hai lần. Ông chung sống với người vợ đầu, Carol Shepp, từ năm 1965 đến năm 1980. Ông đi bước nữa với Cindy Lou Hensley, một  giáo viên người bang Arizona vào giữa năm 1980. Ông có tất cả 7 người con, trong đó có ba người con nuôi.
Có thể nói, duyên nợ của ông với Việt Nam bắt đầu từ ngày 26-10-1967 khi máy bay của ông bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội. Khi nhảy dù thì dù bị rối nhưng ông may mắn vì rơi xuống hồ Trúc Bạch, được vớt lên kịp thời trong tình trạng bị gãy hai tay và một chân. Ông trở thành tù binh chiến tranh và được trao trả cùng nhiều tù binh Mỹ khác ngày 14-3-1973.
Sau khi xuất ngũ, John McCain gia nhập chính trường và giành được một ghế trong Hạ viện Mỹ năm 1982 khi chuyển đến sống tại quê vợ ở bang Arizona. Có tiếng là một nghị sĩ không theo khuôn phép nhưng John McCain chỉ hành động vì lợi ích của nước Mỹ. Tuy thất bại trong hai nỗ lực tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2000 và 2008, John McCain vẫn được coi là “người khổng lồ”, một trong những chính trị gia có tầm ảnh lớn trên chính trường Mỹ cho đến tận cuối đời.
Với ảnh hưởng chính trị của mình và mong muốn Việt Nam và Mỹ thiết lập lại quan hệ ngoại giao, hàn gắn vết thương chiến tranh, ông đã cùng Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ John Kerry, cũng là cựu binh chiến tranh Việt Nam, và nhiều nhân vật có tầm ảnh hưởng khác thúc đẩy chấm dứt cấm vận thương mại của Mỹ đối với Việt Nam và tiến tới bình thường hóa quan hệ song phương.
Trong những lần đến Việt Nam, ông đã thăm lại di tích nhà tù Hỏa Lò, nơi ông từng bị giữ làm tù binh trong hơn 5 năm. Có lần, ông đã dẫn cả con trai mình theo khi thăm lại di tích này, điều mà không phải một “cựu thù” nào cũng có thể làm được.
Là người nhiệt thành ủng hộ thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ, John McCain là một trong những nghị sĩ lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ việc Mỹ nhập khẩu cá basa từ Việt Nam, ủng hộ việc dỡ bỏ cấm vận vũ khí đối với Việt Nam. Năm 2014, McCain đã đến dự Lễ kỷ niệm 20 năm ngày Mỹ bãi bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam tại một tòa nhà của Thượng viện Mỹ và chính tại buổi lễ này, lần đầu tiên Quốc ca Việt Nam đã vang lên tại Quốc hội Mỹ.
Với sự ủng hộ của John McCain và nhiều nghị sĩ khác, quan hệ thương mại Việt – Mỹ đã tăng hơn 100 lần kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Đặc biệt, trong những năm gần đây, các tuyên bố chung cấp cao giữa hai nước đều thể hiện rõ hai bên quan hệ Đối tác toàn diện Việt – Mỹ dựa trên sự tôn trọng độc lập chủ quyền và thể chế chính trị của nhau.
John McCain là một trong những tiếng nói quan trọng tại những thời điểm quyết định mang tính bước ngoặt trong việc bình thường hóa và phát triển quan hệ song phương Việt - Mỹ. Trong suốt thời gian hoạt động chính trị, tới những ngày gần cuối đời, Thượng nghị sĩ John McCain vẫn dành nhiều thời gian và tâm huyết cho các hoạt động nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh. Dự luật chi tiêu quốc phòng năm 2019 của Mỹ mới được ký thành luật hồi đầu tháng 8 này mang tên ông. Luật John McCain có một phần đề cập trực tiếp tới hoạt động hỗ trợ tẩy rửa chất độc da cam/dioxin tại Việt Nam.
John McCain đã trở thành một phần quan trọng trong lịch sử của quan hệ Việt-Mỹ. Trong hồi ký được xuất bản vào tháng 6 vừa qua, John McCain viết: "Tôi đã biết đến những đam mê lớn lao, thấy nhiều điều kỳ diệu, tham gia một cuộc chiến, và giúp kiến tạo hòa bình".
John McCain qua đời, nước Mỹ mất đi một chính trị gia uy tín và Việt Nam chia tay một người bạn.
Đọc thêm...

东南亚国家的空军现代化

15:57 |
空军力量现代化建设是包括东南亚国家在内世界各国的关注点。然而,由于每个国家科学技术水平、保障经费不同,开展方式也不一样。但是,归根结底这些国家都实现老式战斗机升级改进与促进购买新型先进战斗机相结合。
重视老式战斗机升级改进
目前,东南亚国家空军力量所使用的武器装备尤其是战斗机大都是从俄罗斯、美国、英国、法国进口的老式武器装备。因此,为了满足现代作战要求,这些武器装备需要进行升级改进加以现代化。然而,东南亚国家用于研发武器装备的国防预算仍较有限,国防工业基础——升级改进的主要因素存在着不足之处,又有足够的能力自行进行升级改进,而要靠外国国防工业的一揽子协助。
据此,新加坡率先使用外国空军武器装备升级改进一揽子。目前该国60F16  Block-50/52+战斗机(由美国于1998-2003年交付)得到升级改进,包括新的数据传输线、换装主动式电子扫描阵列雷达(AESA),卫星控制精确指挥的武器。这是新加坡与洛克希德马丁之间价值为9.14亿美元的F16战斗机升级改进合作协议。该协议于2016年开始并于2022年完成。同样的方法,泰国也提倡了F-16A/B Block-15战斗机升级改进项目。其中最初升级改进16架战斗机,协议价值为7亿美元,包括换装主动式电子扫描阵列雷达(AESA),补充主动式干扰系统、红外制导空空导弹。马来西亚也正在开展1997年从波音签署购买的F/A-18 Hornet战斗机的升级改进项目。该现代化协议最重要的项目是改进AIM120先进中程空对空导弹,安装JDAM智能炸弹并将GPS卫星导航系统集成于精确指挥武器。
为了有效利用编内战斗机数量,印尼同白俄罗斯签订了2003年从俄罗斯购进的战斗机升级改进、延长寿命的合作协议。据此,在修造改进苏-27SK战斗机的同时,该国集中升级改进苏-30MK战斗机,补充新型火力指挥雷达、主动式电子扫描阵列雷达(AESA)KRET Khibiny电子作战系统、“阿斯特拉”雷达制导的空对空导弹,让其达到“超级30”标准。
主动研发,进行技术转让,生产新型战斗机
这是一个比较难且复杂的问题,因为在很大程度上依赖于国家的科学技术水平和保障条件与能力。对于新加坡而言,由于国防预算较为充沛(2018年国防预算为149亿美元),该国能集中研发制造并在航空领域上取得了突破性成果。正因如此,新加坡能主动研发、保养和维修空中客车、波音等飞机,延长飞机使用寿命,同时也能开发掌控空军力量F-15SGF-16C/D等战斗机的技术并为其提供保障。与此同时,新加坡军工基地还提供服务于飞行员训练、民用军用航空技术人员训练的装备、设备。

对于印尼,尽管国防预算不算充沛,但该国竟是东南亚组织军用飞机生产并向外出口的唯一国家。雅加达采用技术转让方式,同外国军工大包商加强合作,在重要军事设备、武器装备生产上取得了长足的进展。这一合作模式最典型的产品是印尼航空制造公司PT DirgantaraPTDI)与西班牙飞机制造公司(CASA)联合研制的CN-235军用运输机。这款运输机在军事民事领域上取得了较大的成功。到目前为止,共有三架CN-235军用运输机服役于印尼空军。与此同时,通过合作研制CN-235军用运输机,印尼能有机会接触欧洲军用航空的先进技术,因为CASA是欧洲航空防务航天公司(EADS)的子公司。这为印尼掌控航空领域先进技术以便于今后自行研制提供前提条件。此外,该国还与韩国加强合作研发第5代战斗机KF-X/IF-X。该项目战斗机生产数量高达250架,其中印尼空军接收50架,其余数量属于韩国空军。设计师们认为,这种战斗机将随着其发展阶段的发展而研发相应略有不同的版本。第一阶段KF-X/IF-X就是今年刚刚通过的战斗机,雷达反射面积与F/A-18E/FRafaleEurofighter Typhoon等第四代、第四代半(4+)战斗机相同。第二阶段KF-X/IF-X将装有机内武器舱,雷达发射面积下降到F117隐形战斗机相同。最后,第三阶段KF-X/IF-X雷达反射面积与F-22F-35B-2等最先进的战斗机相同。
推动购买新型战斗机
据统计,东南亚是全世界十年来用于武器装备购买的军费最高的区域,从2009年以来军费逐年增加10%。其中,东南亚国家已经并将购买空军使用的新型武器装备,诸如第四代、第四代半多功能战斗机、武装直升机、空中指挥预警机、精确度高的地空武器和空地武器等。最典型的可推新加坡、印尼等国家都为各自国家空军力量武装了先进的多功能战斗机。
新加坡空军从美国购买40F-15SG多功能战斗机、60F-16C/D战斗机和20AH-64D阿帕奇武装直升机,所以被评为装备最先进的空军力量。该国空军F-15SG多功能战斗机是美国只向以色列、日本、沙特阿拉伯、韩国、新加坡五个国家出口的最先进的战斗机。
不仅购买新型战斗机,东南亚国家空军还投入武装C4IRS系统,其中最典型的例子就是购买空中指挥预警机(AEW&C)。这些飞机以前都是美俄等军事强国所独有的设备。泰国曾经购买并列入编制JAS-39C/D Gripen新型战斗机12架,Saab 340 Erieye“萨博爱立眼”空中指挥预警机2架。新加坡也列入编制既能预警又能指挥控制的E-2“鹰眼”(Hawkeye)螺旋桨式舰载空中预警机。可以肯定说,这就是东南亚国家空军现代化建设的长足进展。
东南亚地区各国也非常关注投入购买第五代战斗机,尤其是美国于2018年出动F22第五代战斗机对叙利亚发动空袭,俄罗斯于2017年动用苏-57第五代多功能战斗机歼灭在叙利亚的伊斯兰国组织,中国研发歼-20第五代战斗机之后,这一趋势更是明显。
综上所述,东南亚国家空军现代化建设趋势非常明显,其中重视购买最先进的战斗机。实际上,近期东南亚各国只选择三个供应国家,即美国的F-15SG多功能战斗机,俄罗斯的苏-30MK第四代半战斗机,瑞典的JAS-39C/D Gripen新型战斗机。同时,由于国防预算比较有限,各国都要升级改进并延长老式战斗机的使用寿命。
Đọc thêm...

Hot (焦点)