建立互信制止东海冲突的措施(第三期)

02:48 |
第五、成立东海资料中心和信息分享库。每天都有无数活动在东海展开,任何组织和国家在东海为某种目的运行时,都需要获得有关东海的信息。所以有关东海的信息是十分必要的,而东海信息的分享则是把各国拉近、相互了解和相互体谅的桥梁。因此成立各种东海资料中心和信息分享库对航海安全、海上搜救、对付海盗、对付武装抢劫过往船只等活动进行有效的协调处理具有积极意义。这也是缓解区域紧张气氛、巩固互信的措施之一。
第六、成立区域航海安全检查中心。当东海陷于紧张、复杂状态时,航海安全因大雾、台风、海啸、地震等自然因素而容易产生事故,同时也因人为或技术的原因而产生船只碰撞、海盗、沉船、飞机失事等事故。航海安全检查做好了,将有助于有关各方及时掌握潜在危机和危险而采取有效的应对措施,从而减少冲突危机,促进各种国际海洋经济成分发展。所以研究家和科学家们建议早日成立区域航海安全检查中心。这被视为各国在此基础上建立互信和协调行动的有效措施。
第七、建立东盟-中国冲突控制和预防机制。因东海海岛主权争端之分歧和矛盾及开发丰富的海洋资源、特别是能源和矿产资源的野心,东海潜藏的冲突和战争危机仍然存在。至今又增加了大国之间的区域地缘政治、地缘战略野心及其采取的政治、军事、外交行动。最明显的是2018年和2019年,美国、俄罗斯、中国、英国、法国、印度、日本、澳大利亚等大国军舰和战机都向东海齐头并进。许多场大规模的单边、双边、多边军事演习纷纷在东海上演。东盟与中国时至今日还没有控制和预防冲突机制,若东盟或中国在处理争端时酿成失误或缺乏克制很容易走向冲突的深渊。所以中国与东盟应该早日研究建立控制和预防冲突的机制。
第八、有关各方承诺不在东海搞军事化。东海军事化是一个复杂的问题,很容易引发区域冲突和动荡局势。若一个国家搞东海军事化,其他国家当然不会坐视或视若罔闻,必然会自我武装或寻求军事联盟从而导致东海军备竞赛。实际上,现在已经展开军备竞赛了只是小规模而已,所以区域内外国家都在注视有关各方在东海的军事动态。值得注意的是,中国正在东海人工岛上搞军事化。中国此举削减了区域内外国家对其的信任,同时也影响了国际经济合作与发展进程。所以中国与东盟应该早日签署不搞东海军事化协议。若达成此项协议,东海冲突和战争危机将被推后一步。
 回顾1800年前三国时期的中国历史得出一个教训,蜀国皇帝刘备获吴国皇帝孙权许配自己的妹妹以结成兄弟和抗衡曹魏的吴蜀联盟,但是刘备不相信东吴仍然出兵征服孙权致使蜀吴联盟崩溃。蜀吴两国均因战争而虚弱,魏、继之晋得以崛起机会,晋一举灭了蜀吴称霸天下。所以东海有关国家建立互信将使各国关系稳定、减少误解,不让这片富饶的海域发生不应该的冲突或战争。   

Đọc thêm...

Biện pháp xây dựng lòng tin, ngăn chặn xung đột trên Biển Đông (phần 3)

02:44 |
Năm là, thành lập các trung tâm lưu trữ, chia sẻ thông tin về Biển Đông. Biển Đông với vô vàn hoạt động diễn ra hàng ngày, đối với bất cứ tổ chức hay quốc gia nào cũng đều cần có thông tin liên quan đến vùng biển này khi họ khai thác, sử dụng nó cho mục đích nào đó. Vì vậy, nhu cầu thông tin liên quan đến Biển Đông là rất cần thiết và sự chia sẻ thông tin về nó lại là một trong những cầu nối khiến người ta xích lại gần nhau, hiểu biết và thông cảm cho nhau hơn. Do đó, thành lập các trung tâm lưu trữ, chia sẻ thông tin về Biển Đông để cùng nhau phối hợp xử lý có hiệu quả về các lĩnh vực an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền. Đây cũng là biện pháp góp phần làm giảm căng thẳng, củng cố lòng tin trong khu vực. 
Sáu là, thành lập trung tâm kiểm soát an ninh hàng hải khu vực. Trong bối cảnh khu vực Biển Đông rơi vào tình trạng căng thẳng, phức tạp, an ninh hàng hải cũng rất dễ xảy ra các sự cố do nguyên nhân từ tự nhiên như sương mù, bão biển, sóng thần, động đất… nhưng còn có cả sự cố do nguyên nhân từ con người và kỹ thuật như va chạm tàu thuyền, hải tặc, tàu chìm, máy bay rơi…Vấn đề kiểm soát an ninh hàng hải tốt sẽ giúp các bên liên quan kịp thời nhận biết nguy cơ, nguy hiểm đang rình rập, có biện pháp ứng phó hiệu quả. Từ đó, góp phần làm giảm nguy cơ xung đột, thúc đẩy các thành phần của kinh tế biển quốc tế phát triển. Do đó, các học giả nghiên cứu và các nhà khoa học đề nghị sớm thành lập các trung tâm kiểm soát an ninh hàng hải ở khu vực. Đây được xem là biện pháp hữu hiệu để các quốc gia có cơ sở thực hiện xây dựng lòng tin và cùng nhau phối hợp hành động.
Bảy là, thành lập cơ chế kiểm soát và phòng ngừa xung đột giữa ASEAN và Trung Quốc. Nguy cơ tiềm ẩn xung đột hay chiến tranh ở Biển Đông vẫn còn hiện hữu do những bất đồng, mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền biển, đảo và tham vọng khai thác nguồn tài nguyên phong phú từ biển, nhất là tài nguyên năng lượng và khoáng sản. Đến nay, lại thêm những tham vọng mới về địa chính trị, địa chiến lược khu vực giữa các nước lớn, kèm theo đó là các bước đi chính trị, quân sự, ngoại giao của các nước đó. Biểu hiện rõ nhất là năm 2018 và 2019, hàng loạt tàu chiến, máy bay hiện đại của hải quân các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc… đều hiện diện ở Biển Đông. Nhiều cuộc tập trận, diễn tập quy mô lớn cấp độ đơn phương, song phương và đa phương đã diễn ra. Trong khi đó, giữa ASEAN và Trung Quốc hiện chưa có cơ chế kiểm soát và phòng ngừa xung đột. Giả sử các nước ASEAN hay Trung Quốc mắc sai lầm trong xử lý các tranh chấp và thiếu kiềm chế, mọi việc sẽ rất dễ thẳng tiến đến bờ vực của xung đột. Do đó, Trung Quốc và ASEAN nên nghiên cứu, sớm thành lập cơ chế kiểm soát và phòng ngừa xung đột trên biển.
Tám là, các bên có liên quan cam kết không quân sự hóa Biển Đông. Quân sự hóa Biển Đông là vấn đề phức tạp và dễ dẫn đến nguy cơ xung đột cũng như làm cho tình hình khu vực rơi vào bất ổn. Vì nếu một nước tiến hành quân sự hóa Biển Đông thì các nước còn lại tất không thể ngồi yên hay khoanh tay đứng nhìn. Họ tất yếu sẽ cũng phải tự trang bị vũ khí hay tìm “liên minh” quân sự. Dẫn tới diễn ra chạy đua vũ trang ở Biển Đông. Thực tế hiện nay đã bắt đầu diễn ra chạy đua vũ trang, nhưng chưa ở mức độ cao mà thôi. Chính vì vậy, các quốc gia trong và ngoài khu vực rất tích cực theo dõi những động thái quân sự của các bên hữu quan trên Biển Đông. Đặc biệt, Trung Quốc đang có biểu hiện quân sự hóa trên các đảo đá nhân tạo tại Biển Đông. Những hành động này của Trung Quốc đã làm giảm lòng tin đối với các quốc gia trong và ngoài khu vực, đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến tiến trình hợp tác phát triển kinh tế quốc tế. Do đó, Trung Quốc và ASEAN cần sớm ký kết thỏa thuận về không quân sự hóa Biển Đông. Nếu đạt được thỏa thuận này, nguy cơ xung đột, chiến tranh ở Biển Đông sẽ được đẩy lùi một bước.
Nhìn lại lịch sử Trung Hoa thời Tam Quốc cách đây 1.800 năm cho thấy một bài học: Vua nước Thục là Lưu Bị mặc dù được Vương nước Ngô là Tôn Quyền gả em gái cho để kết tình huynh đệ, hòng xây dựng liên minh Ngô - Thục chống lại Ngụy Tào, nhưng Lưu Bị không hề tin tưởng Đông Ngô, vẫn dấy binh chinh phạt Tôn Quyền để rồi liên minh Thục - Ngô tan vỡ, cả hai nước Thục, Ngô đều suy yếu vì chiến tranh, dẫn đến cơ hội cho nước Ngụy, kế thừa là nước Tấn mạnh lên, sau này tiêu diệt cả Ngô lẫn Thục, bá chủ thiên hạ. Do đó, xây dựng lòng tin giữa các quốc gia có liên quan ở Biển Đông sẽ giúp cho quan hệ giữa các nước ổn định hơn, giảm bớt hiểu lầm, không để dẫn tới xung đột, chiến tranh không đáng có trên vùng biển trù phú này.

Đọc thêm...

强化社会组织的建设性作用

08:40 |
627日在俄罗斯首都莫斯科,俄罗斯和平之路基金会同国际民主律师协会(IADL)联合举行题为东海争端及寻找和平措施的第二次国际研讨会。来自俄罗斯、美国、菲律宾、日本、巴基斯坦、越南等国的海洋法专家学者参加研讨会。
研讨会听取了有关东海争端最新演变、东海争端发展历程、挑战及危机、中国在东海上的政策及行动、驳斥歪曲论调并寻找解决东海争端的有效措施,日本在维护东海秩序问题中的观点等主题的科学报告。
各位代表一致认为东海上的军事化行为不仅影响到地区的和平与安全,而且还影响到国际航行和飞越自由以及海洋的生态环境。代表们同时指出,部分国家的外交政策不但不能缓解争端,而且还可能使争端加剧,同时导致寻找东海问题中的和平解决措施更加困难。
在讨论环节,各位代表表示,迄今,各国采取了许多措施解决海上争端,但海上争端仍未得到妥善解决。在此背景下与会代表认为,强化社会组织在解决争端中的建设性作用被视为一个好办法。
与会代表建议构建东海航行危机有效管理流程、实现东海非军事化、成立东海渔业管理组织以加强东海上的渔业合作、通过各种方式和平解决东海争端等。 
越南外交学院东海研究院副院长苏英俊博士接受记者采访时表示,在研讨会上,越南可向国际社会分享有关东海当前局势及越南关于解决东海争端的立场的信息。越南强调,东海争端有关各方不使用武力或以武力相威胁,在互相尊重独立主权和各国正当利益的基础上促进对话与合作;通过多边机制,尤其是东盟以及由东盟引导的东盟地区论坛、东亚峰会和东盟防长扩大会议来平息海上争端、互相树立信心和预防冲突。一个更具法律约束力和有效性的《东海行为准则》(COC)将有助于维护东海和平、稳定、安全及航行和飞越安全。
在研讨会上发表总结讲话时,国际民主律师协会主席珍妮·米凯(Jeanne Ellen Mirer)强调,多年来,该协会已呼吁东海有关各国在国际法基础上和平解决争端。该协会将继续密切跟踪东海争端演变,致力于维护地区和平、稳定与安全。
珍妮米凯强调,在COC正在形成当中,有关各方应立即停止所有人工岛非法建设活动,停止军事设备部署活动,不采取军事化行动,以避免紧张局势继续升级。有关各方应互相树立信心,为维护地区安全和海洋环境做出积极贡献。各方应充分落实《东海各方行为宣言》(DOC)和尽早完善更具法律约束力的《东海行为准则》(DOC)。

Đọc thêm...

Đề cao vai trò xây dựng của các tổ chức xã hội trong vấn đề Biển Đông

08:30 |
Ngày 27/6, tại thủ đô Moskva, Quỹ "Con đường hòa bình" (Nga) đã phối hợp với Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADL) tổ chức Hội thảo quốc tế lần thứ hai "Tranh cãi trên Biển Đông và tìm kiếm giải pháp hòa bình." Tham dự hội thảo có các học giả nghiên cứu chính trị, luật gia, chuyên gia về luật biển đến từ Nga, Mỹ, Philippines, Nhật Bản, Pakistan, Việt Nam. Đại biểu Trung Quốc được mời song không thể tham dự vì lý do riêng.
Trong hai phiên, hội thảo đã nghe 11 báo cáo khoa học về các đề tài như diễn biến mới nhất xung quanh xung đột lãnh thổ trên Biển Đông, lịch sử diễn tiến xung đột trên Biển Đông, những thách thức và nguy cơ; chính sách và thực tế hành động của Trung Quốc trên Biển Đông; bác bỏ những sai lệch để tìm ra giải pháp hiệu quả cho cuộc xung đột trên Biển Đông; quan điểm của Nhật Bản về đảm bảo trật tự trong quy định tại khu vực Biển Đông; hợp tác nghề cá trên Biển Đông..., khái quát tổng thể và rõ ràng toàn cảnh lịch sử và hiện tại tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, cũng như quan điểm chính của các nước liên quan, song đặc biệt nhấn vào các đề xuất cho giải pháp hòa bình đối với cuộc xung đột lãnh thổ quan trọng không chỉ ở khu vực Đông Nam Á, mà còn ở tầm châu lục và toàn cầu, trong đó có những đề xuất được đưa lần đầu tiên thu hút chú ý của giới chuyên gia.
Các báo cáo viên đều nhất trí rằng hành vi quân sự hóa ở Biển Đông không chỉ ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của khu vực, mà còn ảnh hưởng đến tự do hàng hải và hàng không quốc tế cũng như môi trường sinh thái biển. Song cũng chỉ ra rằng chính sách đối ngoại của một số nước không những không giúp giảm bớt căng thẳng mà còn có thể gây gia tăng căng thẳng và có thể khiến cho việc tìm kiếm giải pháp hòa bình ở biển Đông trở nên khó khăn hơn.
Trong phần thảo luận, các ý kiến tại hội thảo chỉ ra rằng cho đến nay đã có nhiều giải pháp giải quyết mâu thuẫn như chia sẻ chủ quyền, cùng quản lý, sửa đổi hợp tác và phát triển, các biện pháp củng cố lòng tin, phi quân sự hóa... Tuy nhiên, chưa biện pháp nào chấm dứt được tranh chấp. Trong bối cảnh đó xã hội hóa tranh chấp được xem là thêm một khả năng cho đối thoại. Cần phải gia tăng các hội nghị, hội thảo quốc tế có sự tham dự của tất cả các bên liên quan, bao gồm Trung Quốc.
Các đề xuất giải pháp được đưa ra bao gồm xây dựng một quy trình quản lý khủng hoảng hàng hải hiệu quả ở Biển Đông, phi quân sự hóa các thực thể đã chiếm đóng ở Biển Đông, tăng cường hợp tác nghề cá ở Biển Đông thông qua việc thành lập một tổ chức quản lý nghề cá khu vực tại Biển Đông, tăng cường tính minh bạch của các hoạt động của lực lượng dân quân hàng hải ở Biển Đông và huy động mọi phương thức giải quyết hòa bình dựa trên Công ước Liên hiệp quốc về luật biển và phán quyết trọng tài năm 2016.
Giám đốc Quỹ "Con đường hòa bình" Irina Umnova chia sẻ với phóng viên TTXVN rằng so với hội thảo lần thứ nhất vào tháng 9/2018, hội thảo lần này mở rộng hơn, không chỉ hạn chế ở giới chuyên gia, mà có thêm sự tham dự của các tổ chức xã hội có hợp tác với chính quyền. Bà Umnova chỉ ra rằng các tổ chức xã hội, cộng đồng chuyên gia hiện nay có vai trò không nhỏ trong việc hình thành nên ý chí chung trên con đường hướng tới trật tự thế giới yêu chuộng hòa bình.
Điểm khác biệt thứ hai, các nhà tổ chức và người tham gia đặt điểm nhấn vào thực tiễn, cho dù trong hơn nửa năm qua diễn biến ở Biển Đông không có cải thiện, mà có phần xấu đi vì cả những lý do bối cảnh quốc tế toàn cầu, quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng ảnh hưởng đến hầu hết các nước liên quan vấn đề Biển Đông.
Trên cơ sở cách tiếp cận thực tiễn đó, các đại biểu tham gia hội thảo đã chỉ đưa ra những đề xuất thực tiễn gìn giữ hòa bình, mở ra con đường giải quyết những nhiệm vụ rất sâu sắc và lâu dài trong lĩnh vực sinh thái, phát triển bền vững, bảo vệ và cân đối lợi ích của tất cả các bên. Do đó, nhà tổ chức dự định không chỉ tổng kết kết quả hội nghị, mà còn xuất bản và công bố kết quả đó tại các diễn đàn tranh luận quốc tế và Nga. Nhà tổ chức hội thảo còn có kế hoạch đệ trình kết quả mang tính chất khuyến nghị lên Bộ Ngoại giao Nga.
Bà Umnova cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đóng góp cho hội thảo của Việt Nam, của các tổ chức xã hội, Hội Luật gia Việt Nam, đặc biệt khi năm 2019 là năm chéo giữa hai nước: năm Việt Nam tại Liên bang Nga và năm Liên bang Nga tại Việt Nam. Bà tin tưởng vào hiệu quả của sự hợp tác Nga-Việt trong giải quyết vấn đề Biển Đông mà hội thảo quốc tế là một diễn đàn.
Trao đổi với phóng viên, tiến sỹ Tô Anh Tuấn, Viện phó Viện Biển Đông Học viện Ngoại giao Việt Nam, đánh giá tích cực về một diễn đàn quốc tế mới về cuộc xung đột trên vùng Biển Đông, nơi Việt Nam có thể thông tin chính thức và chính xác đến cộng đồng quốc tế về tình hình Biển Đông cũng như quan điểm của phía Việt Nam về con đường giải quyết xung đột.
Con đường đó tóm tắt ở bốn nội dung chính gồm không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực; thúc đẩy đối thoại và hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của mọi quốc gia; dựa vào các cơ chế đa phương, đặc biệt ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như ARF, EAS, ADMM+ để kiểm soát bất ổn, xây dựng lòng tin, và ngăn ngừa xung đột.
COC sẽ không giúp giải quyết tranh chấp, nhưng một COC thực chất, ràng buộc, và hiệu quả sẽ giúp duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải, hàng không ở Biển Đông; tuân thủ luật pháp quốc tế đặc biệt Công ước Luật biển 1982 trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Phát biểu kết luận hội thảo, bà Jeanne Ellen Mirer, Chủ tịch IADL, khẳng định trong nhiều năm qua Hiệp hội đã kêu gọi giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế và sẽ tiếp tục theo dõi tình hình để đảm bảo dần ổn định hòa bình và an ninh trong khu vực. Bà kêu gọi tất cả các chuyên gia của hội nghị hôm nay báo cáo kết quả của hội nghị lên Chính phủ để xem xét, áp dụng phù hợp với tình hình của đất nước mình.
IADL cũng sẽ đăng tải toàn bộ kết quả của hội nghị trên trang web và tạp chí của Hội để lan tỏa rộng hơn nữa những nội dung và lời kêu gọi của hội nghị. Chủ tịch IADL cũng đặc biệt kêu gọi trong khi Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) đang trong quá trình hình thành, các bên cần sớm chấm dứt các hoạt động xây đảo nhân tạo bất hợp pháp và ngừng triển khai các thiết bị và phương tiện quân sự và các hành động quân sự hóa khác khiến tình hình căng thẳng thêm leo thang.
Các bên liên quan nên bắt đầu ngay quá trình xây dựng lòng tin góp phần giữ gìn an ninh khu vực và môi trường biển, tôn trọng và tuân thủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), đồng thời sớm thiết lập và thực thi COC có tính ràng buộc pháp lý và dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Bộ quy tắc ứng xử cần bao gồm nghĩa vụ pháp lý của các bên liên quan đối với việc bảo đảm quyền tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông và nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Các thành viên IADL sẽ theo dõi chặt chẽ tình hình ở Biển Đông để có những động thái kịp thời góp phần ổn định hoà bình, an ninh khu vực./.

Đọc thêm...

推动多边合作 巩固双边关系

13:42 |
应日本首相安倍晋三的邀请,越南政府总理阮春福及夫人率领的越南高级代表团27日上午离开河内,出席将于627日至71日在日本举行的20国集团峰会。此次与会肯定越南主动和积极融入国际的主张,同时体现国际社会对越南在地区和平、安全和发展中的作用和地位的肯定。
这并不是越南首次受邀出席二十国集团峰会。2010年,越南以东盟轮值主席国身份首次出席20国集团峰会。2017年,作为当年APEC会议东道主,越南应20国集团主席国德国的邀请出席20国集团峰会及相关会议。本届峰会,越南是20国集团东道主——日本邀请的八位特别嘉宾之一。
本届峰会预计将举行全球经济、贸易与投资,革新创新和数字经济,可持续发展、就业、妇女和卫生,环境、能源与气候变化等四场讨论会。作为嘉宾,越南将出席201920国集团峰会范围内的各场会议,参加峰会期间举行的所有讨论会,并向峰会联合声明草案提供意见。阮春福总理预计将在20国集团全体会议上发表讲话,分享越南对处理全球经济问题的愿景、合作构想和努力,为建设和平与繁荣且不让任何人掉队的世界作出努力。
日本首相安倍晋三重视并提出本届峰会讨论的三项关键问题:重组世贸组织,数字经济和环境,特别是海洋环境。上述三个问题都与越南利益息息相关,所以越南正积极参与解决这三项问题。
适值出席在日本大阪举行的20国集团峰会之际,阮春福总理将对日本进行访问。他此行是在越日关系正快速发展的背景下进行的。两国不久前联合举行建交四十五周年纪念活动,而目前两国建立了越日合作委员会,越日外交安全与国防战略伙伴对话,越日国防政策对话,越日贸易、能源和工业混合委员会、农业对话会等各项重要合作机制。
关于经济合作,今年头5个月,双边贸易额达到150多亿美元,同比增长百分之三点二。目前,日本在越有效直接投资项目4000多项,注册资金达到580亿美元,在对越投资的116个国家和地区中位居第二。
阮春福总理出席本届峰会将有助于强调越共十二大提出的对外主张和路线,那就是主动参加并在多边机制内发挥作用,强调越南为解决全球问题作出的积极贡献。此行还有力推动越日深广战略伙伴关系日益发展。

Đọc thêm...

Thúc đẩy hợp tác đa phương, củng cố quan hệ song phương

12:42 |
Sáng 27/6, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng Đoàn cấp cao Việt Nam rời Hà Nội, lên đường tham dự Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) và thăm Nhật Bản từ ngày 27/6 - 1/7 theo lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe.
Việc tham dự Hội nghị G20 khẳng định chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với uy tín và vị thế của Việt Nam đối với hoà bình, an ninh và phát triển trong khu vực.
Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam được mời tham dự sự kiện quan trọng nhất của nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới. Năm 2010, Việt Nam tham dự Hội nghị thượng định G20 lần đầu tiên với tư cách Chủ tịch ASEAN. Trên cương vị chủ nhà Năm APEC 2017, Việt Nam được mời tham dự Hội nghị thượng đỉnh G20 và các hoạt động liên quan trong năm Đức làm chủ tịch. Tại thượng đỉnh G20 lần này, Việt Nam là 1 trong 8 khách mời đặc biệt của chủ nhà Nhật bản.
Hội nghị thượng đỉnh G20 lần này dự kiến có 4 phiên thảo luận về kinh tế toàn cầu, thương mại, đầu tư; đổi mới sáng tạo và kinh tế số; phát triển bền vững, việc làm, phụ nữ, y tế; môi trường, năng lượng và biến đổi khí hậu.
Với tư cách khách mời, Việt Nam tham dự các hội nghị và cuộc họp trong khuôn khổ G20 trong năm 2019; tham gia thảo luận tại tất cả các phiên họp của hội nghị thượng đỉnh và đóng góp ý kiến cho dự thảo Tuyên bố chung hội nghị. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự kiến có bài phát biểu tại phiên họp toàn thể của Hội nghị G20, trong đó, có chia sẻ tầm nhìn, ý tưởng hợp tác và nỗ lực của Việt Nam trong việc xử lý các vấn đề kinh tế toàn cầu, vì một thế giới hoà bình, thịnh vượng, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Ba vấn đề then chốt mà Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe coi trọng và đưa ra thảo luận ở hội nghị lần này gồm: cải tổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kinh tế số và môi trường, đặc biệt là môi trường trên biển. Cả 3 chủ đề đó đều liên quan mật thiết tới lợi ích của Việt Nam và hiện nay, Việt Nam đang tích cực tham gia giải quyết 3 vấn đề này. Nhân tham dự Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Osaka, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiến hành chuyến thăm Nhật bản. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Hai nước vừa kỷ niệm 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 2018), và hiện có các chế hợp tác quan trọng, như: Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật; đối thoại đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản về ngoại giao-an ninh-quốc phòng; đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam-Nhật Bản; ủy ban hỗn hợp về thương mại, năng lượng và công nghiệp; đối thoại nông nghiệp ….
Về hợp tác kinh tế, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước 5 tháng đầu năm 2019 đạt hơn 15 tỷ USD (tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2018). Lũy kế đến tháng 5-2019, Nhật Bản có hơn 4 nghìn dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 58 tỷ USD, đứng thứ 2 trong tổng số 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, hai nước còn hợp tác trên nhiều lĩnh vực, như: nông nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu, hợp tác lao động, giáo dục, du lịch...Đây là cơ sở thuận lợi để quan hệ Việt - Nhật tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Chuyến tham dự Hội nghị thượng đỉnh G20 và thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lần này sẽ góp phần quan trọng vào việc khẳng định chủ trương, đường lối đối ngoại do Đại hội XII của Đảng CSVN đề ra, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, khẳng định sự đóng góp tích cực của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề toàn cầu. Chuyến thăm đồng thời góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển.

Đọc thêm...

建立互信制止东海冲突的措施(第二期)

03:42 |
第三、加强一些领域的合作与共同发展。目前趋势显示,印太区域已将是二十一世纪世界经济发展的动力区。东海连接印度洋与太平洋,全球一半的货物运输量经过东海西南面的马六甲海峡。东海肯定会成为全球共同利益不可或缺的一部分。其向各国显示,各国有求于加强东海合作与共同发展,尽管那里是海岛主权争端不休的海域。必须意识到,承认东海既有共同利益又有领土主权问题是一个良好的开端。有关国家对主权有不同的诠释,这是不可避免的,重要的是认清这个事实是缓减紧张局势的必要起点。
由于历史、国际法的变迁及复杂性,对各领海、各岛礁、海洋和海底资源的归属做出准确的裁定是十分困难的。没有任何一个国家或体制可以强加一个单独的解决措施,要有一个具有分享性质的共同解决措施。这可被视为形成顾及该海域有关国家利益的东海共同合作开发观点的基础。
近几年来,海上共同合作开发模式是各方多次提及的,被视为各方解决东海争端最具可行性的模式。此模式导致划分海域措施或共同开采东海资源的共识。在世界解决海洋争端中,共同合作开发并非新思维。大体上,它是有关国家分享重叠水域资源的认同。这个认同的基础正是国际法规定的国家主权、主权权利及管辖权。共同开发认同被视为减少争端各方之间冲突的暂时措施,只在于发展资源的目的,绝不能影响国家海洋领土主权、主权权利及管辖权的主张。
实际上,在东海已有许多基于共同合作开发精神的海洋划界协定获得签署。越南已同几乎所有拥有海洋边界的邻邦进行海洋划界,其中有越南-中国北部湾划界协定和越南-中国北部湾渔业合作协定。越南-泰国暹罗湾划界协定,越南-柬埔寨历史水域协定,越南-印尼大陆架划界协定,越南-马来西亚大陆架重叠区共同合作开发协定等,不一而足。海洋划界并不是在任何水域都是轻而易举的,因为在解决主权问题上碰到困难,所以一项容易被接受的解决措施是争议各方在有利的基础上在该海域进行合作共同开发。对这片争议海域已提出不少合作开发方案,有关国家应采取和平解决措施,提出符合1982年《联合国海洋法公约》规定的海岛主权声索,对重叠海域应举行谈判以得出明确的确认。这样将为减轻东海动荡危机、保障和平环境及航海自由作出贡献。国际法实践表明,重叠海域未获得确定时,《联合国海洋法公约》要求有关国家举行直接谈判以做出临时性的安排,包括各方商定共同开发水、海产或石油、天然气等资源。
第四、严格履行国际法、国际海洋法、区域协定。东海海岛主权争端包含诸多问题,其中包括许多国家因主观和客观原因引发有可能造成全球性后果的地缘战略和地缘军事竞争。所以必须达成全球性的机制和解决措施,而该机制及措施之执行时间的长短取决于需要解决的逐个具体问题。
在目前的背景下,东海所面临、容易导致冲突、战争的困难及紧张等因素,要求区域内国家首先要严格履行国际法体系、国际海洋法的相关规定以及《东海各方行为宣言》、《东南亚友好合作条约》等区域承诺。若放弃,不维持这些机制,东海将沦为无政府为所欲为血肉横飞的海域。

Đọc thêm...

Biện pháp xây dựng lòng tin, ngăn chặn xung đột trên Biển Đông (phần 2)

03:35 |
Ba là, tăng cường khả năng hợp tác cùng phát triển trên một số lĩnh vực. Xu hướng hiện nay cho thấy, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đang và sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế của thế giới trong thế kỷ XXI. Biển Đông nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Gần một nửa khối lượng vận chuyển hàng hóa toàn cầu đều đi qua eo biển Malacca ở phía tây nam Biển Đông. Biển Đông chắc chắn sẽ là một phần thiết yếu trong lợi ích chung toàn cầu. Nó đặt ra nhu cầu cho các nước phải tăng cường khả năng hợp tác cùng phát triển trên Biển Đông dù rằng đây là vùng biển đang có nhiều tranh chấp chủ quyền về biển, đảo. Cần phải nhận thấy, việc thừa nhận Biển Đông vừa có vấn đề lợi ích chung, vừa có vấn đề lãnh thổ, chủ quyền đã là một sự khởi đầu tốt. Sự diễn giải khác nhau về chủ quyền của các quốc gia có liên quan là điều không thể tránh khỏi. Quan trọng là nhìn nhận thực tế về điều này chính là bước khởi đầu cần thiết để giảm bớt những căng thẳng.
Do những thay đổi và sự phức tạp của lịch sử và luật pháp quốc tế, việc phán xét quyền sở hữu chính xác đối với các vùng lãnh hải, các thực thể đảo và các nguồn tài nguyên dưới đại dương và đáy biển là vô cùng khó khăn. Không một quốc gia hay thể chế nào có thể áp đặt giải pháp riêng rẽ mà cần phải có những giải pháp chung mang tính chia sẻ. Đây được xem là cơ sở hình thành quan điểm hợp tác cùng phát triển ở Biển Đông trên cơ sở lợi ích chung cho các quốc gia có liên quan ở vùng biển này.
Những năm gần đây, thực hiện hợp tác cùng phát triển trên biển là mô hình được nhắc tới khá nhiều từ các bên, được cho là khả thi nhất đối với các bên trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Mô hình này đặt ra giải pháp phân định biển hoặc cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên tại Biển Đông. Hợp tác cùng phát triển không phải là ý tưởng mới trong giải quyết các tranh chấp biển trên thế giới. Về đại thể, đó là một thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, nhằm chia sẻ tài nguyên trên các vùng biển chồng lấn. Cơ sở của các thỏa thuận này chính là chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển của quốc gia theo quy định của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, thỏa thuận về khai thác chung phải được coi là giải pháp tạm thời nhằm giảm xung đột giữa các bên tranh chấp và chỉ nhằm mục đích phát triển nguồn tài nguyên, tuyệt đối không được làm ảnh hưởng tới yêu sách về chủ quyền lãnh thổ cũng như các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển.
Trên thực tế, tại khu vực Biển Đông cũng đã có nhiều hiệp định phân định biển được ký kết trên tinh thần hợp tác cùng phát triển. Việt Nam đã tiến hành phân định biển với hầu hết các nước liên quan. Trong đó có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam với Thái Lan trong vịnh Thái Lan, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam với Campuchia, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia, Thỏa thuận khai thác chung Việt Nam - Malaysia …Tuy nhiên, vấn đề phân định biển không phải ở khu vực nào cũng có thể tiến hành một cách dễ dàng vì gặp phải khó khăn trong vấn đề giải quyết chủ quyền. Vì thế, một giải pháp dễ chấp nhận hơn là các bên tranh chấp cùng hợp tác cùng phát triển vùng biển này trên cơ sở các bên cùng có lợi.
Đã có nhiều đề nghị cho phương án hợp tác cùng phát triển trên vùng biển có tranh chấp này. Các quốc gia hữu quan nên áp dụng các biện pháp hòa bình và đưa ra tuyên bố chủ quyền về biển đảo phù hợp với những quy định của UNCLOS 1982 và các vùng biển chồng lấn cần tiến hành đàm phán để xác định rõ. Như vậy, nó sẽ góp phần làm giảm nguy cơ gây bất ổn và bảo đảm môi trường hòa bình, tự do hàng hải trên Biển Đông. Thực tiễn luật pháp quốc tế cho thấy, một khi các vùng biển chồng lấn chưa được xác định, UNCLOS yêu cầu các nước liên quan tiến hành các bước đàm phán trực tiếp để dàn xếp tạm thời, có thể bao gồm các thỏa thuận cùng nhau phát triển thủy, hải sản hoặc cùng nhau khai thác các nguồn tài nguyên như dầu mỏ và khí đốt.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc quy định của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế và các thỏa thuận khu vực. Tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông hàm chứa nhiều vấn đề, trong đó có một số vấn đề về cạnh tranh địa chiến lược và địa quân sự xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến nhiều nước và nó có nguy cơ để lại hệ lụy mang tính toàn cầu. Do đó, cần có những cơ chế và giải pháp mang tính toàn cầu và thời hạn thực hiện chúng dài hay ngắn tùy thuộc vào từng vấn đề cụ thể cần giải quyết.
Tuy nhiên, những khó khăn, căng thẳng phức tạp và nguy cơ dễ dẫn đến xung đột, chiến tranh ở Biển Đông trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi các quốc gia trong khu vực trước hết phải tuân thủ nghiêm các quy định của hệ thống luật pháp quốc tế, luật Biển quốc tế và các cam kết ở khu vực như DOC, TAC... Vì bỏ qua những thể chế này, không duy trì nó thì Biển Đông chẳng khác gì một khu vực “vô chính phủ” mà ở đó “mạnh ai nấy được”, dễ xảy ra cảnh “đầu rơi, máu chảy”.

Đọc thêm...

越南一向尊重和保障人民信息获取权

03:22 |
保障人民的信息获取权一向是越南党、国家严格展开的主张,因为这是人基本权利的重要内容。但是,敌对势力和反动主义分子已故意歪曲越南信息获取权乃至公民权和政治权的保障情况。在一些网站上,不良分子妄称越南捏死封闭通信,阻碍人民的发表意见自由权和言论自由权。自由亚洲广播电台(RFA)网站上的文章还大肆捏造所谓封闭信息是越南政府的原则论调。
首先要肯定上述论调都是毫无根据的捏造,歪曲越南信息获取权乃至公民权、政治权的保障条款,说明那些人对越南隐藏不良政治动机。越南人民信息获取权保障的事实已驳斥这一切歪曲论调。
越南党、国家一贯主张鼓励并为人民获取信息,使用因特网获取信息,旨在发展经济社会、实现行政改革提高生活质量与实施人民基本权利等创造便利条件。本着上述精神,越南在保障人民信息获取权领域上取得了诸多成就。第一,体现在法律系统制定和健全。越南国会已修改和颁发许多相关文件,旨在日益更好地保障人民信息获取权,诸如2016年新闻法、2016年信心获取法、2018年网络安全法,政府颁发《关于管理、提供和使用因特网和网上通信》的第72号议定书等。这些法律文件都遵守社会主义法权原则,符合2013年宪法,既保障人民信息获取权,又有利于提高国家信息保密要求和效果。
越南政府已在政府电子门户网站上开展人民、企业意见接受系统,制定和公布行政改革指数和人民对政府机关的满意指数。在4.0工业革命来袭的条件下,政府已成立关于推动电子政府建设的国家委员会,建设各国家机关的电子通信网站,在线提供公共服务,让各机关、组织和干部与人民直接对话,人民通过因特网向党、政府发表意见,提高对人民意见和建议的接受效果。实际上,通过因特网、社交网向党、国家主张和政策发表意见和建议的人数日益增加。社交网上的许多信息已得到各级职能机关及时明查和处理。
越南党和国家已采取多项主张,尤其是发展新闻媒体系统,旨在日益更好地保障人民信息获取权。为了提高信息公开性、透明性,政府总理已签发了部级、政府机关、省市人委会发言和信息提供机制。在党、国家的关心下,越南新闻媒体系统已快速、全面发展,发挥好党、国家和人民的桥梁作用,是发挥民主的广泛社会论坛,是人民正当权利的保护者。新闻媒体机关数量快速增加,而且广播电视节目、办报科技、各刊物质量也日益得到提高。办报队伍日益发展和成长。值得一提的是,多媒体模型的新闻传媒机关发展定向已为各新闻机关的信息传播提供巨大空间,为更好地保障人民信息获取权作出贡献。
大众通信设施和因特网的快速发展说明越南言论自由权和信息自由权的发展已迈出了一大步。但是,像世界各国一样,越南法律也对一些场合中言论自由权、信息获取权的限制作出规定,其完全符合公民权、政治权国际公约,旨在尊重其他人的合法、正当权利和名誉,保护国家安全、社会秩序治安、公共卫生和社会道德。一些网站所摘引并诬告越南违反信息自由权的场合,实际上是违反越南法律。像世界各国一样,在越南,阻碍或威胁信息获取自由权,利用言论自由权、信息自由权来侵犯组织和个人的合法、正当权益、损害他人的名誉、侵犯国家安全、社会秩序治安、社会道德和公共卫生等行为都按程度进行处治。
多年来越南在保障人民信息获取权领域所取得的成就是不可否认的。这些成就赢得国际社会的高度评价和认可。越南党、国家和人民一向努力发挥所取得的成就,并积极努力克服不足之处。越南强烈反对有关人民信息获取权乃至人权保障的捏造歪曲论调。

Đọc thêm...

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền được thông tin của người dân

03:01 |
Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, bởi đây là một trong những quyền cơ bản của con người. Thế nhưng thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện các quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng ở Việt Nam. Trên một số trang mạng thiếu thiện chí có kẻ cho rằng Việt Nam "bóp nghẹt", "bưng bít" thông tin; “cản trở các quyền tự do biểu đạt, chính kiến và ngôn luận"... của người dân. Thậm chí trên trang mạng của RFA còn hồ đồ phán rằng: “bưng bít thông tin là nguyên tắc của Chính phủ Việt Nam...”.
Cần khẳng định ngay rằng giọng điệu trên là bịa đặt vô căn cứ, trắng trợn xuyên tạc việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền được thông tin ở Việt Nam nói riêng. Hành động ấy lộ rõ ý đồ, động cơ chính trị không trong sáng đối với Việt Nam. Sự thật bảo đảm quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái ấy.
Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được thông tin; khai thác, sử dụng internet để tiếp cận thông tin nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về bảo đảm quyền được thông tin của người dân. Những thành tựu ấy trước hết được thể hiện ở việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật nhằm bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin của người dân, trong đó có những luật, nghị định như: Luật Báo chí 2016; Luật Tiếp cận thông tin 2016; Luật An ninh mạng 2018; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”... Tất cả những văn bản luật ấy đều tuân thủ nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp năm 2013, vừa bảo đảm quyền tiếp nhận thông tin, vừa bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong bảo vệ bí mật Nhà nước, chống việc lộ, lọt bí mật thông tin.
Chính phủ Việt Nam đã triển khai hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ, xây dựng và công bố công khai hằng năm Chỉ số cải cách hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước và Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước. Trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến, để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân; để người dân thông qua mạng internet có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, gửi ý kiến tới Đảng, chính quyền nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận phản ánh thông tin, kiến nghị của người dân. Thực tế cho thấy số người dùng internet, MXH để bày tỏ chính kiến, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi các góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng ở Việt Nam ngày càng tăng. Nhiều thông tin từ MXH đã được các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền kiểm tra, xác minh và xử lý kịp thời.
Nhằm bảo đảm quyền được tiếp nhận thông tin của người dân, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, trong đó có việc phát triển báo chí, truyền thông. Để tăng cường tính công khai, minh bạch thông tin, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế về cơ chế phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo các quy định của pháp luật và hoạt động báo chí hiện hành... Được Đảng, Nhà nước quan tâm, báo chí cách mạng nước ta đã có sự phát triển nhanh chóng và toàn diện, ngày càng thể hiện rõ vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là diễn đàn xã hội rộng rãi để phát huy dân chủ; là người bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân... Không chỉ tăng nhanh về số lượng các cơ quan báo chí, các chương trình phát thanh, truyền hình và công nghệ làm báo, chất lượng các xuất bản phẩm ngày càng đổi mới cả về nội dung, hình thức thể hiện. Đội ngũ những người làm báo có sự phát triển, trưởng thành trên nhiều mặt. Đặc biệt, định hướng phát triển báo chí theo mô hình cơ quan truyền thông đa phương tiện đã tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải thông tin của các cơ quan báo chí, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin và tiếp nhận thông tin của nhân dân.
Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng và internet cho thấy quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin ở Việt Nam đã có bước cải thiện, phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin và tiếp cận thông tin trong một số trường hợp, phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội. Những trường hợp mà một vài trang mạng dẫn ra để nói rằng Việt Nam vi phạm quyền tự do thông tin, thực chất họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam mọi hành vi cản trở, đe dọa đến quyền được thông tin, quyền tự do tiếp cận thông tin; lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của tổ chức, cá nhân; gây tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác; xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức và sức khỏe cộng đồng... tùy vào tính chất, mức độ đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, chúng ta cũng khách quan thừa nhận rằng, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Đáng lưu ý là việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ở một số bộ, ngành, địa phương chưa tốt. Còn có biểu hiện cán bộ được phân công phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí sợ trách nhiệm, đùn đẩy cho người không có thẩm quyền hoặc viện dẫn nhiều lý do để từ chối cung cấp thông tin. Một số cán bộ được phân công cung cấp thông tin còn thiếu kỹ năng phát ngôn, chưa tìm hiểu sâu kỹ vấn đề, vụ việc, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của báo chí và dư luận. Sự phối hợp giữa người phát ngôn với bộ phận chức năng chuyên sâu chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng thông tin cung cấp chưa kịp thời và thiếu rõ ràng. Việc điều tra, xử lý những đối tượng vi phạm quyền được thông tin của người dân, tung tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi xấu, gây ảnh hưởng tới danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân... chưa kiên quyết, kịp thời; chế tài xử phạt chưa đủ mạnh...
Mặc dù còn những hạn chế nhưng những thành quả của Việt Nam trong bảo đảm quyền được thông tin của người dân là rất cơ bản và không thể phủ nhận. Những tiến bộ đó đã được dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nỗ lực phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại, hạn chế. Mặt khác, Việt Nam kiên quyết đấu tranh, phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc, bóp méo sự thật về bảo đảm quyền con người nói chung và quyền được thông tin, tiếp cận thông tin của người dân Việt Nam nói riêng.

Đọc thêm...

第三十四届东盟峰会留下越南印记

02:35 |
越南政府总理阮春福一行623日圆满结束出席在泰国举行的第三十四届东盟峰会行程。阮春福出席本届峰会继续肯定越南一向是东盟的负责任成员国,同时呼吁东盟发挥地区团结精神,发挥东盟中心作用,推动东盟主导的地区机制有效运行。
第三十四届东盟峰会是在世界和地区局势发生许多变化,贸易保护主义蔓延,世界大国竞争加剧,第四次工业革命对生活各方面造成影响的背景下举行的。这表明东盟各国要更加团结,共同应对挑战。
基于这一精神,东盟各国领导人讨论如何推动政治安全、经济和文化三个合作支柱发展。各国领导人强调了保障可持续安全和保障东盟的中心作用等需求。关于经济问题,各国领导人一致同意促进域内贸易,其中包括推动于2019年内结束《区域全面经济伙伴协定》(RCEP)谈判,旨在建成世界最大自贸区。
关于社会文化问题,东盟各国领导人决定将2019年定为东盟文化年,旨在加强东盟各国文化交流和推动形成文化特色。
本届峰会上,在越南将于2020年担任东盟轮值主席国的背景下,阮春福呼吁东盟各国继续加强各领域合作,给人民带来实实在在的利益,推进体制改革,提高东盟活动效果。阮春福在东盟峰会全体会议上发表讲话时也强调东盟应继续将巩固域内团结、域内对接、发挥东盟在东盟主导的地区安全与合作机制内的核心作用及其效果等视为头等优先事项。
东盟峰会期间,阮春福总理分别与泰国总理、印度尼西亚总统、新加坡总理举行双边会晤。此外还与老挝总理、柬埔寨首相举行工作会议。阮春福在各场会晤和会谈中就东海问题与各国领导人进行讨论并一致认为要继续配合和推动落实《东海各方行为宣言》以尽早达成一项务实、有效和保障国际社会利益的东海行为准则
特别是在与新加坡总理李显龙举行会晤时,阮春福对李显龙于2019531日发表关于19791980年阶段越南与柬埔寨关系的讲话表示不满。李显龙解释说,新加坡无意伤害越南,他提及印度支那历史中一个令人痛心的章节的唯一目的是强调今天的和平、稳定与繁荣来之不易,在当前形势下,东盟要继续维持团结、加强合作。李显龙同时强调,新加坡十分重视与越南的友谊与互信;高度评价越南在维护地区和平、安全、稳定与发展环境中以及在建设强大、团结和韧性的东盟共同体进程中的重要作用。
可以说,阮春福出席第三十四届东盟峰会行程取得了圆满成功,为巩固东盟团结,发挥东盟的中心作用,扩大并深化东盟与伙伴方的关系做出积极贡献。

Đọc thêm...

Hội nghị cấp cao ASEAN 34 ghi đậm dấu ấn Việt Nam

02:34 |
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ngày 23/6 đã kết thúc tốt đẹp chuyến tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 tại Thái Lan. Những hoạt động của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong chuyến tham dự lần này tiếp tục khẳng định, Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm, kêu gọi phát huy tinh thần, gắn kết nội khối, phát huy vai trò trung tâm và hiệu quả của các cơ chế khu vực do ASEAN chủ trì và dẫn dắt.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, chủ nghĩa bảo hộ thương mại, cạnh tranh nước lớn tăng lên, và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động mọi mặt đời sống. Đây là những yếu tố cho thấy, các nước ASEAN phải tiếp tục đoàn kết hơn nữa để cùng nhau chung tay vượt qua thách thức.
Trên tinh thần đó, lãnh đạo các nước đã thảo luận về thúc đẩy 3 trụ cột hợp tác là chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa. Các nước khẳng định nhu cầu duy trì một nền an ninh bền, bảo đảm vai trò trung tâm của ASEAN. Về kinh tế, các nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy hơn nữa thương mại nội khối, trong đó sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) trong năm 2019, nhằm tạo ra một khối thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Về văn hóa xã hội, các nhà lãnh đạo quyết định chọn 2019 là năm Văn hóa ASEAN nhằm tăng cường giao lưu văn hóa và thúc đẩy bản sắc văn hóa ASEAN.
Tại Hội nghị lần này, với cương vị là Chủ tịch kế nhiệm ASEAN năm 2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã kêu gọi các nước ASEAN tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, đẩy mạnh cải cách thể chế và nâng cao hiệu quả bộ máy hoạt động của ASEAN. Trong bài phát biểu tại phiên toàn thể, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã nhấn mạnh đến ưu tiên hàng đầu là tiếp tục củng cố đoàn kết, gắn kết nội khối, phát huy vai trò trung tâm và hiệu quả của các cơ chế khu vực do ASEAN chủ trì và dẫn dắt.
Nhân dịp tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã có các cuộc gặp song phương với Thủ tướng Thái Lan, Tổng thống Indonesia, Thủ tướng Singapore. Thủ tướng cũng đã có cuộc làm việc với Thủ tướng Campuchia và Thủ tướng Lào.
Tại các cuộc gặp này, vấn đề Biển Đông một lần nữa được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu ra và được các nhà lãnh đạo các nước nhất trí, đó là tiếp tục phối hợp thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả và bảo đảm lợi ích của cộng đồng quốc tế.
Đặc biệt trong cuộc gặp với Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phê phán phát biểu ngày 31/5/2019 của Thủ tướng Lý Hiển Long phần liên quan đến Việt Nam và Campuchia giai đoạn 1979 – 1980.
Thủ tướng Lý Hiển Long giải thích Singapore không có ý làm tổn thương Việt Nam, chỉ nhắc lại một chương đau buồn trong lịch sử Đông Dương để nhấn mạnh hoà bình, ổn định và thịnh vượng hôm nay không mặc nhiên mà có, và bối cảnh hiện nay đòi hỏi ASEAN tiếp tục duy trì đoàn kết, gắn bó và tăng cường hợp tác.
Thủ tướng Lý Hiển Long cũng nhấn mạnh, Singapore hết sức coi trọng quan hệ hữu nghị và tin cậy với Việt Nam, đánh giá cao vai trò và những đóng góp quan trọng của Việt Nam từ trước tới nay trong việc duy trì hoà bình, an ninh, ổn định và phát triển của khu vực cũng như trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và tự cường.
Có thể nói chuyến tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thành công tốt đẹp, góp phần thắt chặt và củng cố tinh thần đoàn kết ASEAN, phát huy vai trò trung tâm của Hiệp hội, mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác của ASEAN.

Đọc thêm...

建立互信制止东海冲突的措施(第一期)

02:44 |
近年来,牵涉东海(中方称南海)主权争端国家之间的紧张状态引起区域及世界各国的关注。东海紧张局势若得不到控制将引发冲突或战争,无论是何种程度的冲突或战争都将使东南亚乃至世界局势动荡不安。因此,区域内外国家现已正全力以赴寻求限制对主权争议与分歧的措施,以缓解日益加剧的紧张气氛,制止可能爆发的东海冲突或战争。区域各国关注的措施之一是有关国家建立互信,而这项措施值得重视并应予深入及认真落实。
 在东海问题上建立互信包括哪些、可以让有关国家互不猜忌和误解、特别是无需大动干戈的措施呢?大体有如下几个:    
 第一、共同合作巡逻东海。东海是半封闭海域,面积数百万平方公里,每天都有必需得到安全保障的诸多活动:东海周边国家渔民捕捞海产、区域国家开发海底资源、各国货物运输轮船繁忙往返、大洋气候地质考察活动等。东海仍存在海盗、极端分离分子和恐怖分子,所以上述各项活动都需要得到安全保障,各国海军、海警、渔政等力量执行这一任务。此前,各国上述力量之间的关系几乎没有得到关心和重视。有太少区域层面就共同巡逻、共同海洋科研等研讨会被举行,即使举行了也没有多大效力因为它是自发的,没有得到区域各国广泛、高度一致的合作。近几年来,各国已有所悟应共同参与解决。关于海上合作巡逻研讨会被举行并签署合作文本。区域各国海军、海警共同巡逻次数与日俱增并得到重视,为东海和平和稳定作出贡献。这些活动进而走向建立互信措施,比如区域海军海上意外相遇规则等,加强保障航海安全减少潜在冲突危机的国际合作。实践证明,区域各国海军、海警过去几年进行共同巡逻后,区域和平环境,东海航海安全得到更好的保障。区域各国建立海上互信的措施逐步落到实处。
第二、减少片面军事行动。实践表明,每当东海安全局势恶化、演变复杂时,都是由片面侵犯主权和主权权利行动引起的。即使是小规模行动也会引发有关方的反应与回应,尤其是中国最近架设钻井平台、颁布休渔令、建造人工岛等片面行动都侵犯了越南、菲律宾等国的主权和主权权利。区域内外国家均感到不安,海上安全日益复杂化。
与此同时,还有另一种危机可能会发生,那就是针对区域一些国家,使用配有水面军舰、潜艇和战斗机等现代装备的海军、海警进行活动,容易引发误判。此危机因潜艇、航母及远程导弹等先进装备及武器的参与而显得更加严峻。这些现代装备要求士兵们在进行军事演习、实弹演练时操作要准确,指挥和调节系统要达到高效率才能避免失误而引发灾难。
当然,在片面军事行动发生时,总会引起有关国家的密切注视、提防和回应。即使是一个意外的小失误有时会成为引发区域冲突的导火线。所以片面行动或片面军事行动越少,各国关注、提防、回应的机会也就越少,尤其是可以减少不应该、不经意间而引发冲突及战火的失误。

Đọc thêm...

Hot (焦点)