中国为何不应退出公约

15:52 |
随着中、菲东海仲裁案最后裁决的一步步临近,有关中国如何应对不利裁决的讨论一直不断。有人甚至提议,如果裁决不利于中国,中国应该索性退出《联合国海洋法公约》(后称《公约》),但是也有学者指出,退出《公约》不仅会令中国国际形象受损,也会让中国丧失根据《公约》获得的许多利益。
德国学者:中国可以退出《公约》
《联合国海洋法公约》第317条的规定,缔约国可以给联合国秘书长书面通知退出本《公约》。在菲律宾对中国就东海提出强制性仲裁之初,就有人建议中国可以退出《公约》。德国波恩大学国际公法研究所所长斯特凡·塔尔蒙(Stefan Talmon)今年3月在中共党媒《人民日报》旗下的《环球时报》英文版上的一篇文章“仲裁后,中国可以退出《公约》”,(Denouncing UNCLOS remains option for China after tribunal ruling)再次引发相关的讨论。
塔尔蒙说,虽然退出《公约》不会影响国际仲裁庭就菲律宾提出的东海所作的裁决,裁决对中国依然有效,但是“中国未来却可以不再受越南、印度尼西亚、马来西亚有关东海以及日本有关东海的类似诉求的约束。” 《公约》规定,退出行为在发出废除通告一年后方能生效。
他还说,退出后,中国还可以继续享有《公约》所带来的大多数的有利条件,因为《公约》的绝大多数条款都已经被视为习惯国际法的组成部分。
他特别指出,不过,退出后的中国也会损失一些利益,比如,将不再享有国际海洋法法庭的法官席位,不再向大陆架界线委员会派驻代表,也不再是国际海底管理局的成员国。中国可能根据习惯国际法来主张对外大陆架及其资源的权益,但其能源公司会被排除在勘探和开发活动之外(除非它们是由另一缔约国注册和资助)。
中国学者:退出将让中国国际形象受损
但是,中国在华盛顿设立的智库中美研究中心执行主任洪农在接受美国之音采访时说,中国不应该考虑这个思路,因为除了丧失《公约》带来的很多利益外,这还将有损中国的形象。
“中国当时选择加入《公约》的时候实际上有过全盘的考虑。就算退出,还有一年期,也不能阻止别的国家提起法律程序的问题,同时对你的有责任、有担当、愿意负起国际责任、愿意遵守国际秩序的大国形象,肯定也是有损害的。”
中国官方的中国东海研究院助理研究员叶强在接受美国之音采访时说,中国不能因为一个“东海问题,一个东海仲裁案, 因为《海洋法公约》争端解决机制可能在程序上有些漏洞,更容易被周边一些国家利用就退出《公约》”,他说,中国建设“海洋强国”的国家战略需要《公约》的保障。
“因为《公约》它规制的不仅仅是东海问题,它被称为‘海洋宪章’ ,实际上,它对全世界的海洋治理、对未来海上通道的安全、海上合作、 海洋科学研究和海洋环境的国际保护等很多方法面面的都做了很多规范。现在我们只看到的东海争议和东海争议。中国建设海洋强国的国家战略提出,这就意味着未来中国一定在全球海域范围内,都要享有公约赋予的合法的权利,另一方面也应该遵守《公约》缔约方的义务。”
值得提出的是, 现在中国和日本、中国和韩国在处理东中国海问题上,主要依靠《公约》作为重要的法律依据。
新加坡学者:不能阻止越南等国的法律行动
针对德国学者塔尔蒙的提议,新加坡国立大学国际法中心研究员达亚拉达戴文波特(Tara Davenport 在日本《外交官》杂志撰文直接反驳,认为中国不应该退出《公约》。
她说,退出这个历时九年达成,由320个条款和九个附件组成,并有167个国家(包括中国、俄罗斯和欧盟)签署的这样一个“海洋宪章”不应该是冲动的行为。她指出,退出《公约》不仅不能解决与菲律宾的问题,甚至也不能阻止其他国家的类似法律行动。
她说,因为退出必须在接到通知之日起后一年才生效,在这一年期内, 没有任何事情可以阻止越南、印尼和日本等国国家采取类似的行动。这个在历史上已经有先例。因此,她认为,退出非但不会阻止他们,甚至会加速他们的行动。
至于深海矿产资源和外大陆架矿产资源的开采权的丧失,她说,对中国来说,丧失的不仅仅是商业利益,而且是战略资源。
Đọc thêm...

Vì sao Trung Quốc không nên từ bỏ UNCLOS

15:52 |
Một trong những kịch bản mà một số nhà phân tích đưa ra trong trường hợp Tòa ra phán quyết không có lợi Trung Quốc đó là nước này sẽ tuyên bố từ bỏ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Tuy nhiên trái ngược với những phân tích đó, có rất nhiều lý do thuyết phục để Trung Quốc không nên từ bỏ UNCLOS.
 Khi phán quyết cuối cùng trong vụ kiện trọng tài giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông sắp được đưa ra, đã có nhiều đồn đoán về việc Trung Quốc sẽ làm gì sau khi phán quyết được công bố. Một trong những kịch bản đáng lo ngại hơn cả trong trường hợp Tòa ra phán quyết không có lợi đó là Trung Quốc sẽ tuyên bố từ bỏ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Điều 317 cho phép các quốc gia từ bỏ UNCLOS bằng cách thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Kịch bản này lần đầu tiên được đưa ra ngay sau khi Philippines khởi kiện Trung Quốc vào năm 2013 và gần đây được nêu chi tiết trong bài viết của Stefan Talmon có tiêu đề "Rút khỏi UNCLOS vẫn là lựa chọn cho Trung Quốc sau khi tòa án ra phán quyết." Talmon cho rằng từ bỏ UNCLOS sẽ là một lựa chọn khả thi cho Trung Quốc nếu Tòa Trọng tài phán quyết tranh chấp theo hướng bác bỏ chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa. Ông cho rằng sẽ không có bất lợi nghiêm trọng nào cho Trung Quốc vì Trung Quốc giống như Mỹ sẽ tiếp tục được hưởng hầu hết các lợi thế được quy định trong UNCLOS theo luật tập quán quốc tế.
Từ bỏ một điều ước mất chín năm để đàm phán, có 320 điều khoản và chín phụ lục bao trùm nhiều vấn đề rộng lớn, với 167 quốc gia thành viên và được coi là "bản hiến pháp" của đại dương không thể là một quyết định bột phát. Như Talmon thừa nhận, đó phải là một lựa chọn dựa trên việc cân nhắc cẩn trọng các mặt được và mất của việc tiếp tục tham gia UNCLOS. Tuy nhiên trái ngược với khẳng định Talmon, có rất nhiều lý do thuyết phục để Trung Quốc không nên từ bỏ UNCLOS.
Đầu tiên, từ bỏ UNCLOS sẽ không giúp Trung Quốc thoát khỏi nghĩa vụ tuân theo phán quyết của Tòa trọng tài. Điều 317 của UNCLOS quy định rõ ràng rằng việc từ bỏ không ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Thứ hai, từ bỏ UNCLOS không hoàn toàn bảo vệ Trung Quốc chống lại các vụ kiện tương tự trong tương lai có thể được đưa ra bởi Việt Nam, Indonesia hoặc Malaysia ở Biển Đông hay Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, theo như lập luận của Talmon. Theo Điều 317, việc từ bỏ UNCLOS chỉ có hiệu lực một năm sau khi có thông báo bằng văn bản. Trong khoảng thời gian một năm này sẽ không có gì ngăn chặn các nước này đưa ra các vụ kiện chống lại Trung Quốc. Thật vậy, khi Colombia rút khỏi Hiệp ước Bogota sau phán quyết năm 2012 của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về vụ việc giữa Nicaragua và Colombia, Nicaragua đã không lãng phí thời gian khi đệ trình một vụ việc khác chống lại Colombia trước khi thời hạn một năm hết hạn. ICJ khẳng định rằng tòa có thẩm quyền xét xử vụ việc thứ hai trong thời hạn một năm, vì Hiệp ước của Bogota chỉ chấm dứt hiệu lực với Columbia một năm sau khi có thông báo từ bỏ. Như vậy, thay vì loại trừ các vụ kiện chống lại mình, việc từ bỏ UNCLOS của Trung Quốc thậm chí còn có thể kéo theo một loạt các vụ kiện được khởi xướng trước khi thời hạn một năm kết thúc.
Thứ ba, Trung Quốc đã tham gia rất sâu vào hệ thống UNCLOS. Một minh chứng là Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào chế độ đáy biển sâu được thiết lập dựa trên Phần XI của UNCLOS, trong đó cho phép các quốc gia thăm dò và khai thác tài nguyên dưới đáy biển sâu ở những khu vực nằm ngoài thẩm quyền quốc gia. Trên thực tế, Trung Quốc là nhà đầu tư tiên phong trong thăm dò đáy biển sâu, đã tích cực tham gia vào việc thăm dò đáy biển sâu từ những năm 1970. Cơ quan nhà nước của Trung Quốc là Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Tài nguyên Khoáng sản Đại dương đã ký kết ba hợp đồng về thăm dò khoáng sản dưới đáy biển sâu với một tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm về việc quản lý các nguồn tài nguyên này là Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA).
Sự tham gia của Trung Quốc vào chế độ đáy biển sâu được thúc đẩy không chỉ bởi khả năng thu lời từ khai thác khoáng sản mà còn bởi các lý do chiến lược, bao gồm việc đảm bảo một nguồn cung lâu dài cho nguồn kim loại quý hiếm để thay thế cho nguồn khoáng chất trên mặt đất và việc nâng cao năng lực khoa học và công nghệ biển của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, nước này sẽ phải từ bỏ việc thăm dò hiện tại của mình và làm lãng phí thời gian, nguồn lực và chi phí đáng kể. Cách duy nhất mà Trung Quốc có thể hưởng lợi từ chế độ đáy biển sâu khi không phải là một bên tham gia chế độ này là đầu tư chung với nhà thầu khác và nhận tài trợ từ một quốc gia khác, nhưng đây là một quá trình rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và không được đảm bảo.
Trung Quốc cũng đã tận dụng các quyền lợi của mình được quy định trong Điều 76 Phần VI của UNCLOS để yêu sách thềm lục địa vượt quá 200 hải lý nhằm khai thác các nguồn tài nguyên dầu và khí đốt ở đó. Điều 76 cho phép các quốc gia có thềm lục địa đáp ứng được các tiêu chí khoa học nhất định (liên quan đến địa chất và địa mạo của đáy biển) đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) các thông tin để chứng minh phần thềm lục địa mở rộng theo như đề xuất của mình. CLCS có quyền đưa ra các khuyến nghị cuối cùng và ràng buộc về việc thiết lập giới hạn ngoài của thềm lục địa. Ngày 14/12/2012, sau khi sử dụng nguồn lực đáng kể để thu thập dữ liệu trên đáy biển trong khoảng thời gian mười năm, Trung Quốc đã đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài của thềm lục địa ở Biển Hoa Đông. Đệ trình của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông và không ngạc nhiên khi nó gây ra sự phản đối từ Nhật Bản.
Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm tổn hại yêu sách thềm lục địa mở rộng của mình mặc dù CLCS chưa xem xét đệ trình của Trung Quốc. Sự thật là Trung Quốc vẫn có quyền hưởng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo luật tập quán quốc tế. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ là liệu những tiêu chí khoa học sử dụng để thiết lập ranh giới ngoài theo quy định của Điều 76 UNCLOS có đạt tới điều kiện của luật tập quán quốc tế hay không.
Hơn nữa, lợi ích chính của việc đệ trình lên CLCS là làm tăng tính hợp pháp của yêu sách thềm lục địa mở rộng của một quốc gia so với quốc gia khác và mang lại sự chắc chắn cần thiết trước khi khai thác dầu khí. Trong phán quyết năm 2012 của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) về vụ việc giữa Bangladesh và Myanmar, việc cả hai bên đệ trình lên CLCS để chứng minh yêu sách thềm lục địa mở rộng có tầm quan trọng to lớn mặc dù CLCS vẫn chưa đưa ra khuyến nghị cuối cùng. Tương tự như vậy, trong phán quyết năm 2012 của ICJ về vụ việc giữa Nicaragua và Columbia, việc Nicaragua không đệ trình lên CLCS khiến ICJ không coi trọng yêu sách thềm lục địa mở rộng của Nicaragua. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, yêu sách thềm lục địa mở rộng của nước này sẽ phải chịu những thay đổi bất thường và sự bất ổn của luật tập quán quốc tế, điều này có thể ảnh hưởng đến vị thế của Trung Quốc so với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông.
Thứ tư, là một quốc gia thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có quyền sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS được quy định trong Phần XV cũng như tham gia vào các tổ chức được thành lập theo UNCLOS. Mặc dù Trung Quốc chưa sử dụng Phần XV, nhưng nước này đã chuẩn bị những bản đệ trình dài cho các phiên điều trần trong hai lần xin ý kiến ​​tư vấn của ITLOS. Trung Quốc cũng là một thành viên của ISA, có một đại diện trong Hội đồng (cơ quan ra quyết định của ISA) trong năm nay, và hiện nay có một đại diện của trong Ủy ban pháp lý và kỹ thuật của ISA chịu trách nhiệm phê duyệt các hồ sơ xin thăm dò và khai thác đáy biển sâu. Trung Quốc có một thành viên trong CLCS cũng như một thẩm phán trong ITLOS. Cơ hội tham gia vào các tổ chức và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS là đặc quyền chỉ dành cho các quốc gia thành viên và cho phép các quốc gia ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định tại các các tổ chức nói trên. Đây không phải là đặc quyền nên từ bỏ một cách dễ dàng.
Thật vậy, trái với những gì Talmon nhận định, nước Mỹ đã trải qua tất cả những nhược điểm mô tả ở trên khi đứng ngoài hệ thống UNCLOS. Doanh nghiệp Mỹ có lợi ích từ các ngành công nghiệp dầu khí, năng lượng, vận tải biển, đánh bắt cá, và truyền thông đã liên tục tranh luận trước Thượng viện Mỹ rằng việc Mỹ không tham gia UNCLOS đã làm xói mòn các lợi ích thương mại và chiến lược của đất nước. Ví dụ, Mỹ không thể gửi thông tin cho CLCS về thềm lục địa mở rộng, do đó làm suy yếu sự chắc chắn về giới hạn của thềm lục địa và cản trở việc khai thác các nguồn tài nguyên dưới đáy biển. Tương tự như vậy, Mỹ đã không thể tham gia đầy đủ vào chế độ đáy biển sâu trong Phần XI mặc dù là một trong những nước mạnh nhất tham gia vào việc thăm dò đáy biển trước khi UNCLOS được thông qua.
Thêm vào đó, Hải quân Mỹ vẫn luôn cho rằng tình trạng không ký kết đã làm suy giảm uy tín của Mỹ trong quan hệ song phương và đa phương và làm tổn hại các hoạt động biển trên toàn cầu của nước này. Các chính quyền Mỹ qua nhiều đời đều ủng hộ việc phê chuẩn UNCLOS và chỉ một nhóm nhỏ các thượng nghị sĩ bảo thủ đã cản trở tiến trình này. Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc, một cường quốc biển toàn cầu, có muốn ở cùng vị thế như Mỹ hay không khi các lợi ích biển cốt lõi được quyết định bởi một một thứ dễ thay đổi và bất ổn như luật tập quán quốc tế.
Cuối cùng và có lẽ cũng là lý do thuyết phục nhất, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sẽ làm suy yếu niềm tin vốn đã mong manh trong cam kết của Trung Quốc về "sự trỗi dậy hòa bình" với tư cách là một siêu cường toàn cầu. UNCLOS thiết lập nền một số kỳ vọng cơ bản về cách hành xử của các quốc gia trên các đại dương và từ đó cung cấp một ngôn ngữ chung thông qua đó các bên yêu sách, ngay cả Trung Quốc, truyền đạt các quan điểm và yêu sách của mình. Khi căng thẳng ở Biển Đông leo thang hàng ngày thì việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm suy giảm lòng tin của các quốc gia trong khu vực. Điều này do đó sẽ làm hỏng mọi nỗ lực của Trung Quốc trong việc theo đuổi lựa chọn theo mong muốn của mình, đó là tìm ra một giải pháp trên cơ sở thương lượng cho tranh chấp Biển Đông.
Phương án Trung Quốc không tuân thủ phán quyết cuối cùng của Toà Trọng tài chắc chắn sẽ gây tổn hại đến vị thế của Trung Quốc với tư cách là một thành viên tuân thủ pháp luật của cộng đồng quốc tế. Nếu thêm vào đó mà từ bỏ một chế độ pháp lý lâu dài và được chấp nhận rộng rãi như UNCLOS có thể sẽ gây ra những hệ quả sâu rộng, đi ngược lại lợi ích quốc gia lâu dài của Trung Quốc. Việc Mỹ không phê chuẩn UNCLOS còn được dung thứ bởi vì Mỹ luôn tuân thủ theo cơ chế UNCLOS. Tuy nhiên, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sau khi tòa án kết luận hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với UNCLOS sẽ không được chấp nhận theo cách tương tự. Có rất nhiều hướng hành động mà Trung Quốc có thể thực hiện sau khi phán quyết của Toà Trọng tài được công bố. Tuy nhiên, từ bỏ UNCLOS không nên là một trong số đó.
Tara Davenport là nghiên cứu viên không thường trực tại Trung tâm Luật pháp Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Singapore và hiện đang là nghiên cứu sinh của Đại học Luật Yale. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang The Diplomat.
Đọc thêm...

为了人民的正当权利

15:50 |
越南政府办公厅630日在河内举行政府专题记者会,公布今年4月导致中部四省鱼类异常死亡现象的环境事故原因。事件发生80天后公布原因和责任人,及时向渔民提供救助,体现了越南政府为保护人民的正当权利而抓紧坚决采取行动的态度。
今年四月初,河静、广平、广治和承天顺化等中部四省发生水海产异常死亡现象。有关该问题处理的数十次会议先后召开。救助渔民的一系列措施得到了实施。
政府为了人民的权利抓紧、坚决和及时采取行动
获悉中部四省发生水海产异常死亡现象后,政府总理和各位副总理视察了当地实际情况,直接同有关部门、地方举行多次会议,坚决指导违规行为的查处工作。
政府总理指示,有关部门、地方要跟进情况,尽快稳定居民生活;保障社会治安秩序,组织职能机关和国内外科学家查找事故原因和责任人。
所有工作都客观、科学、严谨、依法并符合国际惯例进行。这体现了政府领导人对全社会关注问题的坚决态度。

政府总理阮春福在阐述处理该事件的决心时说:“政府坚决维护人民的正当权利。这是我们的责任,也是人民的愿望。造成该事件的任何个人和组织都要查清楚,不能包庇”。
遵照这一严格指示,有关机关配套实施了多项措施。越南通讯传媒部部长张明俊表示:“公布原因体现了党和国家公开透明的主张。党、国家和政府最高领导同志已坚决指导并就该问题召开了数十次会议。公布原因是为了处理后果。公布责任人是为了处理违规行为。我要强调的是,这一结果是客观的、有依据的,除去了造成调查延缓或结果出现偏差的对调查过程中任何一个环节进行的干预”。
按照向人民承诺的时间公布原因很重要,更重要的是如何克服后果。政府总理指示有关部门、地方继续尽快和配套开展损失赔偿工作,协助受影响渔民转行。该工作也要保障公开透明、贴近实际。各地方要继续集中发展经济,为人民和企业投资经营创造一切便利条件,并维护其正当利益。
政府办公厅主任梅进勇部长表示:“首先要集中采取克服措施,稳定沿海地区居民和渔民生活。其中包括实施利率优惠、提供就业帮助、组织收购渔民捕捞的海产;及早公布安全捕鱼区”。
社会舆论的积极反应
中部渔民乃至全社会舆论都高度评价政府、政府总理在处理环境事件,查明原因和明确责任中的高度负责精神。该事件发生以来,政府坚决指导及时采取救助措施,稳定受害地区居民生活。
越南政府召开专题记者会,并邀请国内外媒体参与报道不仅具有解决具体事务的意义,也体现了本着投资谋发展但不忘保护环境和人民利益的精神吸引投资的透明性。
广平省布泽县仁泽乡渔民阮文咏表示,近段时间,当地渔民都期待职能机关对导致鱼类死亡现象的原因做出结论。渔民们对政府的坚决指导表示感谢。在最困难的时候,渔民们受到了政府的关心、鼓励和帮助。
广平省同亥市宝宁乡居民阮清平说:“国家和职能机关在物质和精神上的鼓励,使渔民的思想稳定了下来”。
政府承诺于6月底公布事件原因并履行了承诺,巩固了中部渔民乃至全国人民的信心。这也表明,国家和政府一向关心并深入了解民生问题;本着法律至上、客观、科学精神而行动,言行一致,一切为了人民和国家。
Đọc thêm...

Vì quyền lợi chính đáng của nhân dân

15:47 |
Chiều 30/6, tại Hà Nội, diễn ra cuộc họp báo Chính phủ chuyên đề công bố nguyên nhân sự cố môi trường gây ra hiện tượng hải sản chết bất thường tại 4 tỉnh ven biển miền Trung hồi tháng 4 vừa qua. Việc công bố nguyên nhân, thủ phạm gây ra vụ việc sau hơn 80 ngày cũng như sự hỗ trợ kịp thời cho ngư dân đã cho thấy sự vào cuộc khẩn trương, quyết liệt của Chính phủ Việt Nam để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân.
 Đầu tháng 4/2016, hiện tượng cá chết xảy ra hàng loạt ven biển các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Hàng chục cuộc họp để giải quyết vấn đề này đã được triển khai.  Hàng loạt biện pháp hỗ trợ ngư dân được thực hiện.
 Sự vào cuộc khẩn trương, quyết liệt, kịp thời vì quyền lợi của nhân dân
Ngay sau khi có thông tin về hiện tượng hải sản chết bất thường, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các Phó Thủ tướng đã thị sát, kiểm tra tình hình đồng thời tổ chức nhiều cuộc họp, làm việc trực tiếp với các bộ, ngành, địa phương, chỉ đạo quyết liệt việc điều tra xử lý nghiêm các vi phạm. Theo Thủ tướng, các bộ, ban, ngành, địa phương liên quan phải bám sát tình hình, khẩn trương ổn định cuộc sống người dân; bảo đảm an ninh, trật tự và huy động các cơ quan chức năng, các nhà khoa học trong nước và cả quốc tế tìm nguyên nhân, xác định đối tượng gây ra sự cố. Tất cả việc làm này được triển khai trên tinh thần khách quan, khoa học, chặt chẽ, đúng pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này cho thấy thái độ cương quyết của lãnh đạo Chính phủ đối với vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định quyết tâm xử lý vụ việc: Chính phủ kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Đây là trách nhiệm của chúng tôi và cũng là nguyện vọng của nhân dân. Bất cứ cá nhân tổ chức nào gây ra cũng phải làm rõ, không bao che
Từ sự chỉ đạo sát sao này, các cơ quan chức năng đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn nhấn mạnh: Việc công bố chứng tỏ Đảng, nhà nước chủ trương công khai minh bạch. Các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo và tổ chức hàng chục cuộc họp về vấn đề này. Công bố nguyên nhân là để giải quyết hậu quả. Công bố thủ phạm là để xử lý sai phạm. Tôi nhấn mạnh kết quả là khách quan, dựa trên chứng cứ, loại trừ toàn bộ sự can thiệp làm chậm quá trình điều tra hoặc làm sai lệch kết quả từ bất cứ khâu nào của quá trình điều tra.
 Không chỉ công bố nguyên nhân đúng thời điểm như đã hứa trước dân mà quan trọng là công việc khắc phục hậu quả, Thủ tướng cũng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương liên quan tiếp tục triển khai khẩn trương và đồng bộ công tác bồi thường thiệt hại, hỗ trợ chuyển đổi nghề cho ngư dân bị ảnh hưởng. Việc làm này phải bảo đảm công khai, minh bạch, sát thực tế. Các địa phương cần tiếp tục tập trung phát triển kinh tế, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân và doanh nghiệp. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho  biết: Trước hết tập trung để có biện pháp khắc phục ngay, ổn định đời sống người dân ven biển, đời sống của các ngư dân. Ngay cả vấn đề hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ việc làm, tổ chức mua toàn bộ hải sản mà ngư dân đánh bắt; công bố sớm vùng hải sản đánh bắt an toàn.
 Phản hồi tích cực từ dư luận nhân dân
Dư luận nói chung và ngư dân miền Trung nói riêng đánh giá cao trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện xử lý sự cố môi trường, tìm rõ nguyên nhân, chỉ rõ trách nhiệm. Trong suốt quá trình từ khi sự việc xảy ra đến nay, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai kịp thời các biện pháp hỗ trợ, ổn định cuộc sống của người dân vùng bị thiệt hại. Việc Chính phủ Việt Nam tổ chức họp báo chuyên đề với sự tham gia của các cơ quan báo chí trong nước và quốc tế không chỉ có ý nghĩa giải quyết vụ việc cụ thể, mà còn thể hiện tính minh bạch trong thu hút đầu tư trên tinh thần đầu tư để phát triển nhưng không quên bảo vệ môi trường, bảo vệ lợi ích của người dân.
Việc Chính phủ cam kết công bố nguyên nhân sự cố môi trường vào cuối tháng 6 và thực hiện đúng lời hứa đã củng cố niềm tin của ngư dân miền Trung nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Điều này cũng cho thấy Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm, sâu sát đối với các vấn đề dân sinh; hành động trên tinh thần thượng tôn pháp luật, khách quan, khoa học; nói đi đôi với làm; tất cả vì lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Đọc thêm...

菲律宾下一任总统期间的东海问题

15:27 |
依菲律宾的宪法,总统扮演着对外政策中的总建筑师角色。不仅在地区层面上而且在全球层面上,东海问题的复杂性与敏感性要求菲律宾下一任总统必须对其运用十分巧妙而慎重的接近法。
20131月,菲律宾开始就有关东海的领土和领海争端向国际仲裁法庭提交对中国的起诉。这被视为改变了长期以来关于东海争端问题十分大胆的步骤。该决定就是在中国的陆续过激而挑衅的动态之后得以实现的。其中包括20124月中菲双方在Scarborough Reef(中国称作黄岩岛)发生的紧张关系。这事情已经升级到1994Đá Vành Khăn(中国称作美济礁)事件以来的最高程度。
201510月常设仲裁法庭已经就裁判权和承认等做出判决,而大部分支持菲律宾。该判决符合联合国海洋法公约的附件VII,此外中国的缺席并非使法庭失去权限。法庭也提出了判决:菲律宾的起诉并非滥用任何过程,而且第三方的缺席也无法使法庭失去权限。法庭称,在菲律宾所提交的14个项目中,其具有抽查7个项目的权限。法庭在201511月做出审理结论,并将在2016年就该案件的剩下问题做出判决。
由于领土与领海争端问题只是对外政策中较小的一部分,在各种国家争论中也没有特别凸显的问题,所以这问题目前几乎不是成为总统的希望之中心,并非让人吃惊。然而,东海的复杂性和敏感性要求菲律宾下一任总统必须对其是有十分巧妙而慎重的接近法。那么就这问题而言,菲律宾的政策在新一任总统时期是否会改变?
Aquino政权目前的政策可能在Mar RoxasGrace Poe等候选人的时期得以维持,以追求目前堪称具有战略性的、有效的而具有决定性的法律行动。如果带有目前政权各种标准的Roxas,提及争端问题时延续Aquino的反中之强硬立场尽量利用既有的国际法律基础,那也并非让人吃惊。他意识到菲律宾面对中国优越强大的军事实力应有各种限制性的选择,其本来使外交和法律等选择变成合理及具有可行性,以能够限制中国在东海的非法占据。独立候选人Grace Poe也支持对中国的起诉,但是想要拥有多边外交性质的接近法,其中包含争取地区内的国家,同时鼓励并尊重中菲之间在其他方面的关系,特别是贸易关系。
基本上Poe的政策方向将继续目前的政策;一边促进此起诉,另一边提高国防能力,如巩固菲律宾海上保安力量和海军,让这些力量能够维护国家利益。当任副总统、对立候选人Jejomar Binay则强烈谴责Aquino政权对中国的起诉。因此,Jejomar Binay政权下与中国在东海上的对外政策可能会有很大的转向。Jejomar Binay主张与中国进行联营,以探索并开发东海里的资源,且选择与北京进行双边对话,优先该国作为贸易伙伴的经济实力和重要性。这与棉兰老岛(Mindanao )的Davao 市市长Rodrigo Duterte候选人的观点相同。他也一直想要在减少正式性而不对头的基础上与中国进行双边谈判。
最后一位候选人,Miriam Defensor-Santiago参议员,是一位被认为具有较高的法律专长之认可,具反对中国侵入菲律宾海域,反对中国在东海上各岛礁建设的强烈之观点。她也是在海牙对中国的起诉中之协助者。然而,就其他问题而言,她的观点反映着具有争议性的行事,有时候出乎意料之外,因此她一直对Aquino总统的政权表示强烈的异议。常设仲裁法庭对菲律宾针对中国的起诉进行判决的时间预计于2016年中期,这可堪称非顺利不可。许多人判断最后的判决将支持菲律宾。如果这状况发生,本区域必须为更加紧张的争端,并为中国会“拉筋”加强军事和经济从而引起冲突而做好准备。世界的另外一部分,特别是菲律宾,须调整自己的战略。当然中国的反应与此后对判决的行事将是超强地位的北京既定的时刻。
依菲律宾宪法,总统扮演着对外政策中的总建筑师的角色,这非常重要。菲律宾的新任总统将要为确保国家能穿越极其复杂的领土与领海争端承担巨大的负担。针对中国的起诉,不仅提高菲律宾的国际地位,而且也提高了对东海的其他声索国、区域内及更远的国家的地位。世界的另一半正紧紧地追随马尼拉的领导轮替,因为尽管菲律宾的选民能否认识到这一点,继续或改变在东海上与中国相关的对外政策和外交,将依附于20165月马拉坎南宫的主人。
Đọc thêm...

Vấn đề Biển Đông trong nhiệm kỳ tổng thống Philippines sắp tới

15:26 |
Theo Hiến pháp Philippines, Tổng thống có vai trò như kiến trúc sư trưởng của chính sách đối ngoại. Tính nhạy cảm và phức tạp của vấn đề Biển Đông, ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu, đòi hỏi tổng thống sắp tới của Philippines phải có cách tiếp cận hết sức khéo léo và thận trọng.
Tháng 1/2013, Philippines bắt đầu đưa vụ kiện Trung Quốc xung quanh những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải ở Biển Đông ra Tòa trọng tài quốc tế, một bước đi táo bạo được cho là làm thay đổi cuộc chơi trong câu chuyện dài kỳ về tranh chấp lãnh thổ lâu nay ở Biển Đông. Quyết định này của Philippines được thực hiện sau một loạt động thái hung hăng và khiêu khích của Trung Quốc, trong đó có căng thẳng giữa hai bên hồi tháng 4/2012 ở bãi cạn Scarborough với độ “nóng” leo thang lên mức cao nhất kể từ sự cố Đá Vành Khăn năm 1994.
Tháng 10/2015, Tòa Trọng tài thường trực đã ra phán quyết về quyền tài phán và sự thừa nhận, phần lớn ủng hộ Philippines. Phán quyết này hoàn toàn phù hợp với Phụ lục VII trong Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật Biển và sự vắng mặt của Trung Quốc không làm mất đi tính thẩm quyền của Tòa án. Tòa cũng ra phán quyết rằng vụ kiện của Philippines không lạm dụng các quá trình và việc không có bên thứ ba cũng không khiến Tòa bị mất thẩm quyền. Tòa cho rằng có thẩm quyền xem xét 7 trong số 14 đệ trình của Philippines. Tòa kết luận điều trần vào tháng 11/2015 và ra phán quyết về vụ kiện và các vấn đề thẩm quyền còn lại trong năm 2016.
Do các tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải chỉ là một phần nhỏ trong chính sách đối ngoại và không mấy nổi bật trong các cuộc tranh luận quốc gia nên không có gì ngạc nhiên khi vấn đề này hiện hầu như không phải là trung tâm cho những tham vọng trở thành tổng thống. Tuy nhiên, tính nhạy cảm và phức tạp của vấn đề Biển Đông, ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu, đòi hỏi tổng thống sắp tới của Philippines phải có cách tiếp cận hết sức khéo léo và thận trọng. Vậy liệu chính sách của Philippines đối với vấn đề này có thay đổi trong nhiệm kỳ tổng thống mới?
Chiến lược của Chính quyền Aquino hiện tại có thể sẽ được duy trì dưới thời của ứng cử viên Mar Roxas hoặc Grace Poe nhằm theo đuổi một hành động pháp lý mà cho đến nay là mang tính chiến lược, hiệu quả và quyết định. Sẽ không ngạc nhiên nếu Roxas, người mang các tiêu chuẩn của chính quyền hiện thời, lựa chọn tiếp tục lập trường mạnh mẽ của ông Aquino chống Trung Quốc khi đề cập đến những tranh chấp, tận dụng quy trình và các cơ sở pháp lý quốc tế có sẵn hiện nay. Ông nhận thức được những lựa chọn hạn chế đối với Philippines trước sức mạnh ưu việt về quân sự của Trung Quốc, vốn khiến cho những lựa chọn ngoại giao và pháp lý trở nên hợp lý và khả thi để có thể hạn chế sự chiếm đóng trái phép của Trung Quốc ở Biển Đông. Ứng cử viên độc lập Grace Poe cũng ủng hộ vụ kiện chống Trung Quốc, nhưng muốn có cách tiếp cận ngoại giao đa phương hơn bao gồm cả các nước khác trong khu vực, đồng thời khuyến khích và tôn trọng các mặt khác trong mối quan hệ Philippines- Trung Quốc, đặc biệt về thương mại.
Nhìn chung, đường hướng chính sách chung của Poe sẽ vẫn tiếp tục chính sách hiện hành; vừa thúc đẩy vụ kiện, vừa nâng cao năng lực quốc phòng của đất nước bằng cách củng cố lực lượng bảo vệ bờ biển và hải quân Philippines để những lực lượng này có khả năng bảo vệ được những lợi ích quốc gia. Jejomar Binay, Phó Tổng thống đương nhiệm và là ứng cử viên đối lập, đã lên tiếng chỉ trích vụ kiện chống Trung Quốc của chính quyền Aquino. Do vậy, chính sách đối ngoại với Trung Quốc ở Biển Đông dưới chính quyền ông Binay có thể là một sự chuyển hướng mạnh mẽ. Ông Binay chủ trương liên doanh với Trung Quốc để tìm kiếm và khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông, và lựa chọn đối thoại song phương với Bắc Kinh, ưu tiên sức mạnh kinh tế và tầm quan trọng của nước này như một đối tác thương mại. Điều này đồng quan điểm với ứng cử viên Rodrigo Duterte, Thị trưởng thành phố Davao ở đảo phía Nam Mindanao, người luôn muốn đàm phán song phương với Trung Quốc trên cơ sở ít chính thức và không đối đầu.
Ứng cử viên cuối cùng, Thượng nghị sỹ Miriam Defensor-Santiago, người được công nhận có chuyên môn pháp lý cao, có quan điểm mạnh mẽ phản đối Trung Quốc thâm nhập các vùng biển của Philippines và gần đây là các hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc ở Biển Đông. Bà cũng là người hỗ trợ vụ kiện chống Trung Quốc ở The Hague. Tuy nhiên, quan điểm đối ngoại của bà Santiago trong nhiều vấn đề khác lại thường phản ánh cách hành xử gây nhiều tranh cãi và đôi khi không thể đoán trước, do đó mà thường bất đồng mạnh mẽ với Chính quyền của Tổng thống Aquino. Thời gian để Tòa Trọng tài thường trực ra phán quyết về vụ kiện tranh chấp lãnh hải của Philippines chống Trung Quốc, dự kiến vào giữa năm 2016, là không thể thuận lợi hơn. Nhiều người dự đoán phán quyết sẽ ủng hộ Philippines. Nếu điều này xảy ra, khu vực này cần phải sẵn sàng cho sự căng thẳng lớn hơn và khả năng xảy ra xung đột khi Trung Quốc “lên gân” quân sự và kinh tế, và phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Philippines, cần hiệu chuẩn lại chiến lược của mình. Tất nhiên, phản ứng của Trung Quốc và cách hành xử tiếp sau đó đối với phán quyết sẽ là một thời điểm định trước đối với Bắc Kinh, một quốc gia ở đỉnh của vị thế siêu cường.
Theo Hiến pháp Philippines, Tổng thống có vai trò như kiến trúc sư trưởng của chính sách đối ngoại và điều này là rất quan trọng. Tổng thống mới của Philippines sẽ phải gánh trách nhiệm to lớn để đảm bảo đất nước có thể vượt qua các vấn đề tranh chấp về lãnh thổ và lãnh hải đầy phức tạp ở phía trước. Vụ kiện chống Trung Quốc đã nâng vị thế, không chỉ đối với Philippines mà còn cả những nước có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông, cũng như những nước khác trong khu vực và xa hơn nữa. Phần còn lại của thế giới đang theo dõi hết sức chặt chẽ sự thay đổi lãnh đạo ở Manila vì dù cử tri Philippines có nhận thức được điều này hay không, việc tiếp tục hay thay đổi chính sách đối ngoại và ngoại giao liên quan đến Trung Quốc ở Biển Đông sẽ đều phụ thuộc vào chủ nhân mới của Điện Malacanang vào tháng 5/2016.
Đọc thêm...

中国填海造陆活动:改变东海游戏法因素

07:51 |
自从20139月起,中国已经将正有争端的长沙群岛7块地形构筑化为各块人造岛屿。目前该国正在得到改造过的各珊瑚岛屿上展开扩大军事和民事基础设施。
概要
自从20139月起,中国已经将正有争端的长沙群岛7块地形构筑化为各块人造岛屿。目前该国正在得到改造过的各珊瑚岛屿上展开扩大军事和民事基础设施。北京辩论说,他们正在自己主权中行动,而且这些基地将为国际运输活动带来公用的商品。北京也反驳观点认为他们的行动将给航海自由或本地区的稳定造成危害。
与中国主权宣布相反的是各人造岛屿的主要目的就是带有战略性的,因为它将允许中国的海军、海警和空军力量连续出现在长沙群岛上并且增进北京行驶本国在东海地区的领土主权和管辖权宣布的可能性。
菲律宾是强烈指责填海造陆行为的一方并控诉中国违犯该国主权以及正想方设法将其实际上控制的各海洋地区纳入所谓“九段线”。东盟已对填海造陆行动及其腐化本地区的和平稳定“深表担忧”,这是直到现在东盟对东海局势发表最强烈的声明。东南亚数国已经呼吁东盟和中国尽快提出“东海行为准则”(COC)以减缓紧张局势。
美国也谴责北京改变了东海现状,增加争端军事化,造成本地区不稳定,腐化各种国际准则和原则并且违犯目前同东盟的各项共识。填海造陆爆发了一场有关美国将如何反应而且美国是否应该采取挑战中国在该海洋地区的行动或者对其施加压力措施的争争吵。
中国各种填海造陆的行动有可能深化其同东南亚主权宣布各方(主要是越南和菲律宾)之间的紧张局势,并且已经成为中美关系中日益加深的不和。
开头
“改变游戏法因素”这一组词在国际关系中常常得到滥用。然而,中国在长沙群岛的填海造陆行动– 把水面以下沉没或半沉没的地形构筑和石礁变成人造岛屿– 看起来可以真正成为改变此场长期而尖锐争端中的游戏规则了。自2013年中期,中国对该国在长沙群岛中控制的十字礁、龟鹿角礁、珠圆礁、思义礁、戈文礁、耳环礁和苏比礁等7块地形构筑进行大规模的填海造陆活动。各种扩大的基础设施正在这些得到改造了的石礁上进行建设,其包括各种港口,雷达系统,各种监管系统,各座高层楼房和飞机跑道。当完工后,这些人造岛屿将准许中国的海军、海警和空军等力量维持长期地出现在长沙群岛上并且增加北京行驶其在覆盖东海将近80%的所谓“九段线线”内的领土主权和管辖权宣布的可能性。
北京正在其主权范围内行动,给国际运输带来公用商品以及单纯是“赶上”其他主权宣布方的基础上大力为自己的行动辩护。然而,中国填海造陆活动的各种战略影响已引起亚太地区舆论的广泛担忧。最终,中国的各种人造岛屿很有可能点燃同其他主权宣布各方,特别是菲律宾和越南的局势紧张导火线,加剧了华盛顿同北京之间在东南亚日益突出的战略对头,而且对处理东盟和中国在东海上冲突管控过程更加产生质疑。
纵观中国填海造陆的各个项目
关于中国在长沙群岛上进行填海造陆的各份报告首次出现于20145月。但是直到同年年底当从卫星上拍照下来的高度清晰图片充分显示中国填海造陆行动时,一切才成为十分清楚。那些图片显示自2015-9月,中国已经使用一个大型舰队对7块地形构筑周围进行疏浚填海造陆,结合使用自90年代中建设起来的那些小型混凝土前哨。甚至在填海造陆过程完成之前,各种重型建设设备和混凝土搅拌机已经被运输到这些人造岛屿上了。在那些军事和民事的各种基础设施包括港口、船桥、直升机升降场、各座高层大楼和飞机跑道等的各项工作都马上得到展开。据美国估计,截至目前中国已在长沙群岛改造了2000亩土地。
最大的扩建就是在十字礁,这是一个拥有3000米长,200-300米宽的人造岛比原来珊瑚岛的尺寸大12倍。目前,十字礁已经胜过了由台湾占领的巴平岛成为长沙群岛最大的地形构筑。一条长达将近该改造岛长度的飞机跑道也正在得到建设。据报道,第二条飞机跑道将在苏比礁建设。尽管中国已经在黄沙群岛的富林岛上建设了一条飞机跑道,但是该国却是唯一的一方宣布在长沙群岛上没有飞机跑道的国家(文莱除外,台湾在巴平有一条,菲律宾在市四有一条,马来西亚在兰花礁有一条和越南在长沙有一条)。
已经提到和还没有提到的根本理由
中国已经反驳有关该国填海造陆活动的一切指责并提出三条主要的辩护:
第一,由于中国对东海各珊瑚岛屿行驶“不可争议”的主权,中国有权在各种地形构筑实行该国所认为必要的任何活动而不受到其他争端各方的干涉或反对。
第二,北京辩护说他们只是正在赶上其他主权宣布各方而已。当菲律宾在1970年,马来西亚在1980年,台湾2014年在巴平岛上和越南两年来进行各种填海造陆的时候,中国已经控诉指责各方是假道德机对其采取双重标准。然而,许多有关观察家都指出,中国的填海造地工作在规模和速度上已经远远超过其他主权宣布各方。
第三,正在建设的基础设施主要是为了改善在各珊瑚岛上居住人员的生活条件和带来公用商品而设计的,如搜寻救灾,救助灾祸,海洋科研,天气预报以及向渔民提供避风服务。中国外交部已强调各人造岛屿使用于民事目的在前军事目的在后:“各岛礁在建成后将可以提供所有的较大而全面的服务以除了满足不同民事需求以外还满足十分迫切的军事需求”。
20155月在新加坡召开的香格里拉对话会上,PLA 都督孙建国已经重申这些根本的理由并补充说,与其他主权宣布各方相比,中国已经“十分控制地行动”他同时还说,该国的各项行动对本地区的海上自由航行及和平稳定不会造成危害。
中国的各种辩护理论已经遭到国际社会的质疑,尤其是东南亚各邻国的怀疑态度。四中根本的理由已经得到促进以理解中国各种填海造陆的行为:带有战略和管辖权性质;带有法律性和为了阻止已经得到东盟和中国间提出来的“东海行为准则”(COC)
各种带有战略性的目的
与中国宣布相反的就是得到改造了的各珊瑚岛屿只是带有战略性的。在各人造岛屿上的海港将准许中国人民解放军海军军舰和海警船只力量在东海上执行昼夜的任务而不需要返回中国大陆的其他港口去。通过雷达和卫星的各种联络系统将大大增强中国在东海的海洋监督能力。在十字礁上的机场有可能接受中国人民解放军飞机目录中的所有飞机,其中包括重型运输机和战斗机。因为目前PLA正在缺乏一艘完整的作战航空母舰,加上有可能空中加油的能力也不受限制了,这些珊瑚岛礁将准许PLA在长沙群岛上长期部署战斗机。监控能力得到加强,加上战斗机的出现将引起一种展望,那就是北京将在东海上建立一个像2013年他们在华东海洋上空宣布引起争议那样的防空识别区。近几个月来PLAN已经提出各种警报迫使菲律宾和美国的军事机要离开他们正在进行填海造陆项目的国际领空,这被理解为正如中国一个防空识别区早晚要出现的预兆。中国仍然认为,在该国有权在东海上空设立一个防空识别区的时候,一项决议“取决于航空安全是否受到威胁”。
一旦完成,上述珊瑚岛屿的各种基础设施将准许中国在东南亚海洋中心大力展开军事力量,这将有助于PLA 核心任务中的两项任务:第一,保卫该国通过东海的各条海上交通;第二,PLA 目前展开的海轮和飞机将可以使用像美国所谓反接近战略/阻止侵入中国A2/AD 区域旨在阻挡或在台湾海峡或钓鱼群岛上发生突如其来的军事事件情况下打败第三者(即美国)的干涉。
中国的各种领土主权和管辖权宣布的实施
中国从未明确解释出现在其正式区域地图上的“九段线”是什么意义或者它如何符合于国际法律。然而,越来越显示中国不仅正在对“九段线”内地形构筑宣布主权,而且就连对各种自然资源甚至各种航海活动也宣布“拥有历史权”。中国将有可能通过使用各种战艇和巡沿船舰在这些人造岛屿活动形式加强对其行驶主权及各种管辖权。特别是,CCG的各种船舰将有可能保卫中国在“九段线”内活动的各种渔船,考察船和石油探测平台。
各种法律动机
中国在长沙进行的各种填海造陆活动将不会巩固其的各种主权宣布,因为按照国际法律规定,一个国家不能把一个沉没或半沉没的地形构筑(没有任何一个有权拥有海上的管辖区域)变成一个岛礁(有权拥有12海里的领海)或者一个岛(可以造成一个领海和一个专属经济区- EEZ)。十字礁,龟鹿角礁和珠圆礁可以是有权拥有12 海里的岛礁;但是思义礁,耳环礁,苏比礁和戈文礁却是沉没或者半沉没原来无权拥有海上管辖权的地形构筑;正在得到建设的人造岛屿大不了也只能拥有一个500米的安全区域。
然而,也许更为重要的是,各种填海造陆的活动将使菲律宾对中国的“九段线”宣布主权在法律上的挑战衰弱。对于此事,菲律宾已于2013-1月向联合国海洋法仲裁法庭(ITLOS)呈递控告书,而目前常务仲裁法庭(PCA)正在受理此案。菲律宾在首次呈递文书中已经重申两点:第一,十字礁,龟鹿角礁和珠圆礁和斯卡伯勒浅滩等就是有权拥有一个领海的岛礁而不是一个专属经济区- EEZ;第二,中国侵占耳环礁,思义礁,苏比礁和戈文礁是非法的,因为它们不属于该国的大陆架。然而,通过把这些地形构筑变成人造岛屿的形式PCA 不可能确定这些得到改造的地形构筑当初是不是沉没的构筑、半沉没的浅滩或者石礁等构筑– 实际上,中国已经销毁了各种证据了。菲律宾目前正在考虑寻找一种临时措施,即法庭的一份临时命令以阻止此种填海造陆行为,因为它改变了正在受审判的地形构筑。此起官司目前仍在进行而一份判决将于2016年可以下发。
阻止COC?
2013年东盟和中国已就“东海行为准则”(COC) 进行谈判,尽管如此,谈判进程似乎还在原地踏步。一开始,中国官员们已经表示,尽管东盟各国领导连续呼吁“尽早签署”,但是他们并不急于签署此份准则。东盟秘书长黎良明埋怨说,东盟不可能拉拢中国进入一场关于COC的“实质性讨论”和“外交路程和海上实际情况之间存在越来越大的距离”。中国缺乏热情已经导致一种推断:该国正想方设法故意拖延各次讨论会,因为他们希望在同东盟签署一份准则之前扩大和巩固自己的地位。各种填海造陆项目使得东海改变了原状,将更加巩固人们相信中国正在玩“故意拖延”这一游戏的看法。
东南亚的反应
在东南亚主权宣布的4国当中,菲律宾是指责北京填海造陆最强烈的国家。马尼拉已以四种理由反对与指责填海造陆的行为。第一,由于耳环礁、龟鹿角礁和思义礁等三个地形构筑位于菲律宾的专属经济区之内,中国已严重违反该国的主权。菲律宾政府认为破坏珊瑚脉的各种填海造陆活动将使菲律宾渔民每年受到一个亿美元的损失。第二,中国已违反2002年东盟和中国间签署的«东海各方行为宣言»   ,其还呼吁各方“在进行各种将使局势复杂化和争端升级活动中应压制”并正在大力阻止“东海行为准则”(COC)。第三,中国岛屿建设活动得到大力推进,一部分旨在阻止PCA 确定正在得以审判的地形构筑状况。第四,各种岛屿改造活动是中国为将该地区纳入“九段线”内实际上管控而努力的一部分,而这一举措已经伤害本地区的和平与稳定。菲律宾总统阿基诺贝尼尼奥认为中国正玩“如临战争深渊和充满危险炮舰”的游戏,并说该国在东海上的各种行为将“给世界的剩下部分带来担忧”。
越南不像菲律宾那样大声谴责中国,尽管越南也反对各种填海造陆活动并将之视为违反本国主权同时也违反DOC的活动。越南外交部已经要求中国暂停其各种填海造陆活动并遵守DOC
在外交战线上,菲律宾已经敦促自己东盟的各伙伴成员要对中国采取更加强硬的措施。艾伯特罗萨里奥外长已经辩护说,东盟不能采取行动将会腐化该组织的中心性、统一性和可靠性。另一方主权宣布国的马来西亚同时也是2015年东盟轮流主席国却采取一种较为温和的立场。阿尼法·阿曼外长已经拒绝菲律宾的呼吁要求东盟向中国提出“最后书”,他还说,如果北京暂停填海造陆活动并坐下来跟东盟各国就此问题进行讨论的话,马来西亚将予以“高度评价”。然而,菲律宾可能获得一种成功的措施:在4月举行的第26届东盟首脑会议发表的联合声明对各种填海造陆活动表示“真正的担忧”,并认为其已经“腐化信心且可能伤害东海地区的和平、安全和稳定”。这体现东盟对东海发出前所未有的强烈声明。尽管此种联合声明不直接将错误推给中国,但是该国外长已经强烈反对并果断说,填海造陆活动是“合理,正当与合法”的,而或明或暗地指向菲律宾说,该国“坚决反对一些国家对中国或明或暗的指控”认为他们追求自己的目的却对中国-东盟关系不利。
东盟其他成员国的反应是混淆的。在此场争端中文莱是主权宣布的一方仍保持像过去那样的沉默,泰国和缅甸也是如此。印度尼西亚却强调自己在此场争端中的中立态度,建议扮演“诚实中间方”的角色,但也反驳中国“九段线”的合法性。大型贸易中心的新加坡已经突出领土争端将使全球各条经商线间断的可能性。在2015 香里拉对话会上李显龙总理在自己的主导讲话中已经呼吁赶快签署“东海行为准则”(COC)以“打破这个徘徊圈子”。他的呼吁已经受到柬埔寨和马来西亚国防部长的响应。
美国的反应
美国强烈指责中国填海造陆的活动。美国各位高级官员已经指控北京改变了东海的原状,增加争端军事化,造成本地区不稳定,毁坏各种国际准则和规则,并且违犯DOC
当初,美国已经对各种正在造成紧张局势的活动呼吁一种“自愿冻结”。然而,当中国拒绝此种呼吁时,而当各种填海造陆活动的规模和范围成为明显时,美国的指责已经上升了,如美国各位高级政治家呼吁,要求美国要对北京在东海的行为采取更加强硬的政策以保卫美国各种国家利益,包括航海自由以及保持本国同友好国和同盟国之间的信心。回复此种呼吁,美国国防部长艾什顿卡特已经重申自己对巩固同本地区各同盟国和伙伴国关系、加强美国亚洲转轴的军事平衡包括“坚决出现在东海周围”、采取避免同PLA发生冲突机制、向本地区各国带来安全协助的承诺。有关向本地区各国带来安全协助之事,在2015 香里拉对话会上,美国国防部长艾什顿卡特已向大家通报有关价值为4.25亿美元的“东南亚海洋安全创意”旨在向本地区各国海军力量的建设提供协助。几天后在对越南进行访问时他也承诺向越南海警力量提供18百万美元资助让其购买美国的各种巡逻船只。
到了5月,有消息称美国国防部正在补充考虑一系列选择,包括派遣美国海军的飞机和军舰向正在得到改造的一些沉没地形构筑的12海里周围界限进军。近些年来,美国已经均匀地进行所谓“各种航海自由演习”以向美国认为已经过分或非法地宣布海上管辖权的国家予以还击。然而,如此的各场军演似乎肯定遭到中国的强烈反对,并且可能导致美国军队和正在想方设法限制美国接近本地区的人- 中国军队的危险对头。假若美国国防部慎重地泄露各种媒体信息旨在向北京发出信号说,华盛顿随时愿意采取更加强硬的措施除非中国改变其行为,中国已经对此种选择予以不理睬的态度。今年5月在同中国同行王毅举行的联合新闻发布会上,美国国务卿克里已经呼吁“巧妙外交”以减轻紧张局势而不应该是“各种前哨和飞机跑道”。然而,王毅仍保留着自己的立场,再一次重申中国保卫该国的主权和领土完整的决心“像基石那样平稳”。他还说,填海造陆的各项活动“完全在中国领土范围之内”。在一个星期后举行的香里拉对话会上,艾什顿卡特部长和孙建国都督的讲话已经得到慎重的考量,但没有任何一方偏离了他们当前的立场。美国呼吁包括越南在内的所有各方都应该暂停在东海的填海造地活动,但是似乎毫无希望中国关心到此种呼吁。
展望
中国在长沙的各人造岛屿很有可能按照三种方式加深东海争端中的消极趋势:第一,加剧北京同东南亚主权宣布各方, 尤其是菲律宾和越南之间的紧张局势;第二,此种争端趋于成为中美关系中日益加深的不和,有可能导致其武装力量之间的危险对头;第三,得到改造了的地形构筑将进一步腐化管控东盟-中国之间冲突过程的可靠性。
正如上述所述,在这7块地形构筑上的军事基础将准许PLA CCG大大加强自己在东海上的出现并对其他主权宣布各方造成更大威胁的可能性。菲律宾的各种武装力量已对中国可能使用军队及其各种半军事力量在距离这些得到改造地形构筑很近,又属于菲律宾管理之下的古梅礁和市四礁等珊瑚岛进行封锁表示担忧。为了保卫自己的主权宣布,阿基诺政府已想方设法巩固同美国的军事关系,甚至可以要求战舰护送其救济运输船只。菲律宾有可能将推进展开巴拉望岛上的牡蛎海军根据地,准许美国、日本、澳大利亚等国海军舰出入此地。各种填海造陆的活动也将巩固阿基诺政府追求其法律挑战反对中国在PCA 主权宣布的决心。
由中国岛屿建设活动造成的局势紧张有可能推动其他主权宣布各方,尤其是越南巩固其占领的各珊瑚岛上的国防基础设施。当本地区各国正在为可以发生出乎意料之外的所有情况做准备的时候,在东海上目前正在持续发生的紧张局势也将加快了东南亚地区的武装竞赛进程。预计,东南亚国防支出将由2015年的420亿美元上升到2020年的520亿美元。
此前中国填海造陆的各种活动已经造成美中之间的的一场口战,且倘若北京对在东海上得到改造的地形构筑周围宣布主权/或者指定一种防空识别区的话,紧张局势将还可以进一步升级。美国可以通过派遣军事飞机或军舰进军各人造岛屿12海里之中以及通过不事先通知飞过中国的防空识别区形式反对中国的此种主权宣布。美国国防部长艾什顿卡特直截了当地宣布:“毫无疑问,美国将像自己在世界上正在行驶的那样派遣其飞机和军舰驶过并活动在国际法律准许的任何一个地方去”。美军各场航海自由的演习将会加剧中国和美国武装力量之间在海上和空中近距离而十分危险的摩擦。各种填海造陆活动已经使美国爆发了一场关于其能否通过对中国在海上行动采取更加强硬的措施予以挑战和施加费用压力的争吵。当美国正为201611月举行总统大选做准备的时候,此场争吵有可能将成为更加激烈的争吵了。
近两年来中国在东海所进行的一切活动似乎已经促使东盟对争端问题的更大团结。尽管于20127月,东盟在该问题上的团结已经崩溃了,但是于20145月和20154月该组织的各成员国已经携手并肩发表对中国的各项活动表示真正担忧的联合声明。然而,就连东盟显得有点团结的时候,各种填海造陆的活动仍有可能阻碍同中国发生冲突的管控过程,而实际上也对DOC/COC全部过程的效益性产生质疑。改造2000亩土地和在所有的人造岛上展开扩大军事基地的活动似乎与DOC的“自控”条款完全背道而驰。加上,已经得到改造的各个地形构筑将会准许中国成为在签署COC之前参与支配长沙群岛的一方。
Đọc thêm...

Hot (焦点)