东盟与中国在制定COC磋商中必须警惕的“陷阱”(第二期)

07:37 |
第二,中国设法与地区国家调停和阻止域外国家的活动,利用准则磋商实现北京独占东海的意图。
中国防长在2019年香格里拉对话会上再次重弹东海局势由于地区国家的共同努力已趋于稳定的老调,同时将舆论视线转向一些域外国家以自由航行为借口在东海炫耀武力。实际上,北京正与本地区国家调停,并设法阻止域外国家追随东海和各大洋自由航行大国的行动。印尼防长亚米萨德-里亚古都在对话会上披露范长龙曾对东盟国家防长讲的一段话:东海是我们的后院,我们要共同捍卫东海。此前(2018年)李克强总理敦促东盟国家同中国一道用自己的双手抓住解决东海问题的钥匙,越过外部障碍
禁止外人涉入东海问题的意图在中国提出的准则草案中也昭然若揭,特别是在这两条款中:1- 在争执海域中勘探和开采石油由东海周边国家进行,不与区域外公司合作。2- 签订准则的国家不与区域外国家举行联合军事演习,除非有关方获通报而不表示反对。
中国的上述建议使国际社会担忧,准则将成为区域垄断性调停的工具,与1982年《联合国海洋法公约》背道而驰。这种忧虑的本质是准则可能被利用于为阻止区域外国家军舰通过东海航道,侵犯他们依据1982年《联合国海洋法公约》规定的航行自由权的行为辩解。在2019年香格里拉对话会上,澳大利亚、法国、新西兰防长们一再强调,准则要遵循国际法。印尼分析家德薇-霍都纳-安瓦尔也有此种忧虑。她在对话会上质问,我们怎么保障准则出台后将不对称关系体制化,从长远着想不伤及东盟和与东海有关国家的利益,包括忽视1982年《联合国海洋法公约》所有条款的行为
维护包括1982年《联合国海洋法公约》在内的获得普遍承认的国际法是为地区内外国家的主权和航行自由服务的。马来西亚、菲律宾和越南对准则草案提出的建议是准则没有任何影响各方依照国际法享有的权利和义务的条款,其中包括各项权利与和平解决争端、与外国合作及其自行选择实体权。这项建议是对中国在东海强制实施地区垄断主义于国际法阴谋的沉重打击。东盟开始  警惕了,但必须采取更多行动以避免掉进北京的陷阱
必须指出,东盟国家努力让出台的准则不与1982年《联合国海洋法公约》相矛盾,中国利用准则寻求对东海航行管理的地区垄断主义阴谋暴露无遗。李克强总理提醒说,准则是地区国家解决东海问题,一道确定地区规则的一部分
对国际关系中的法律与政治之间的关系进行研究,对政治领域中法律的履行与滥用,法律得以正确与错误应用,得以正确与错误解释的方式进行观察后,一些研究专家指出,必须明白对国际法的机械理解的现实与限制。他们把国际法视为等待为具体剧本加油添醋的原始规则,引导人们以复杂的思维理解法律。这个判断正好说明东盟所处的环境,东盟的规范工具经常被概括的术语加以塑造,这是在起草文件过程中作出政治妥协带来的结果。这种状态得以延长是因为缺乏解决争端的机制与值得信任的执行机制。比如,在菲律宾发起的东海仲裁案2013 - 2016期间,中国经常援引东海各方行为宣言第四段(关于当事方通过咨询与谈判解决争端的规定)来否认仲裁庭的司法管辖权,同时指责菲律宾违反东海各方行为宣言

Đọc thêm...

ASEAN cần cảnh giác “cạm bẫy” của Trung Quốc trong quá trình đàm phán COC (phần 2)

07:34 |
Thứ hai, Trung Quốc tìm cách “dàn xếp” với các nước trong khu vực, ngăn chặn hoạt động của các nước ngoài khu vực để tìm kiếm sự độc quyền trong kiểm soát Biển Đông theo ý đồ của Bắc Kinh thông qua đàm phán COC.
Tại SLD 2019, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc tiếp tục lặp lại luận điệu rằng, tình hình Biển Đông đang được cải thiện theo hướng ổn định hơn nhờ sự nỗ lực chung của các nước trong khu vực, đồng thời hướng sự chỉ trích vào “một số quốc gia ngoài khu vực đến Biển Đông phô trương sức mạnh nhân danh quyền tự do hàng hải”. Nhưng trên thực tế, Bắc Kinh đang dàn xếp với các nước trong khu vực để ngăn chặn các hoạt động của các cường quốc ngoài khu vực đang theo đuổi quyền tự do hàng hải của họ tại các tuyến đường ở Biển Đông như những tuyến đường chung toàn cầu. Ý đồ này của Trung Quốc được Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Ryamizard Ryacudu nói rõ tại SLD 2019, khi ông nhắc lại những gì tướng Phạm Trường Long của Trung Quốc đã từng nói với các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN rằng: “Thưa các ngài, Biển Đông là sân sau của ta, do đó chúng ta phải cùng nhau bảo vệ Biển Đông”. Trước đó (2018), Thủ tướng Lý Khắc Cường cũng hối thúc các nước ASEAN cùng Trung Quốc “nắm lấy chìa khóa giải quyết vấn đề Biển Đông bằng chính đôi tay của chúng ta và vượt qua những gì trở ngại bên ngoài”.
Ý định cấm đoán “người ngoài” ở Biển Đông cũng được bộc lộ trong văn kiện COC do Trung Quốc đề xuất, nhất là 2 điều khoản sau: (1) Việc thăm dò và phát triển dầu khí ở các vùng biển bị tranh chấp sẽ do các nước ven Biển Đông tiến hành, không hợp tác với các công ty thuộc các quốc gia ngoài khu vực; (2) Các bên ký COC sẽ không tổ chức các cuộc tập trận chung với các quốc gia bên ngoài khu vực, trừ phi các bên có liên quan được thông báo trước và không tỏ thái độ phản đối.
Những đề xuất trên làm gia tăng mối lo ngại trong cộng đồng quốc tế rằng, COC trong tương lai sẽ tạo ra một dàn xếp khu vực mang tính độc quyền và trái với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Bản chất của mối quan ngại này là COC tương lai có thể bị lợi dụng để biện minh cho việc ngăn chặn các tàu quân sự của các quốc gia ngoài khu vực tiếp cận và sử dụng các tuyến đường biển ở Biển Đông, xâm phạm quyền tự do hàng hải của họ theo quy định của UNCLOS 1982. Tại SLD 2019, Bộ trưởng Quốc phòng các nước Australia, Pháp và New Zealand đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, COC phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Nhà phân tích người Indonesia Dewi Fortuna Anwar cũng chia sẻ mối quan ngại này qua câu hỏi mà bà đặt ra tại SLD 2019: “Làm thế nào để chúng ta bảo đảm rằng, COC khi ra đời, trên thực tế sẽ không thể chế hóa một mối quan hệ rất bất đối xứng mà về lâu dài sẽ gây bất lợi không chỉ cho các nước thành viên ASEAN, mà còn cho các bên liên quan rộng lớn hơn ở Biển Đông, bao gồm cả việc không thực sự chú ý đầy đủ tới tất cả các điều khoản trong UNCLOS 1982”.
Việc bảo vệ các nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 là nhằm phục vụ cho các lợi ích về chủ quyền và hàng hải của các nước trong và ngoài khu vực. Do đó, trong văn kiện được đề xuất cho SDNT, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều khẳng định: “COC sẽ không bao gồm bất kỳ điều gì gây ảnh hưởng tới các quyền hoặc nghĩa vụ của các bên theo luật pháp quốc tế, trong đó có các quyền và tiến trình liên quan tới việc giải quyết hòa bình các tranh chấp về quyền lợi hoặc khả năng của các bên trong việc tiến hành các hoạt động với các quốc gia bên ngoài hoặc các thực thể tư nhân do họ lựa chọn”. Điều khoản này đã đánh vào ý đồ của Trung Quốc trong việc muốn áp dụng chủ nghĩa độc quyền khu vực vào luật pháp quốc tế tại Biển Đông. ASEAN đã có sự cảnh giác, nhưng phải làm nhiều việc nữa để tránh rơi vào “cạm bẫy” của Bắc Kinh.
Cần phải nhấn mạnh là, trong khi các nước ASEAN đang cố gắng để COC khi ra đời không mâu thuẫn với UNCLOS 1982, thì ý định tìm kiếm chủ nghĩa độc quyền khu vực trong quản trị hàng hải đối với Biển Đông thông qua COC của Trung Quốc càng bộc lộ rõ. Thủ tướng Lý Khắc Cường đã lưu ý rằng, COC là một phần trong nỗ lực của các nước khu vực nhằm “giải quyết vấn đề Biển Đông bằng cách tiếp cận mang tính xây dựng và chung tay định hình các quy tắc của khu vực”.
Trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa luật pháp và chính trị trong quan hệ quốc tế, quan sát cách thức luật pháp được sử dụng và bị lạm dụng, được áp dụng đúng hoặc sai, được giải thích đúng hoặc sai trong lĩnh vực chính trị, một số nhà nghiên cứu cho rằng, cần phải hiểu rõ những thực tế và hạn chế của cách hiểu rập khuôn về luật pháp quốc tế như một hệ thống quy tắc nguyên thủy đang chờ đợi được lắp ghép thêm những ứng dụng cho các kịch bản cụ thể trong thực tế và hướng tới cách hiểu phức tạp hơn về luật pháp như một hiện tượng xã hội học. Nhận định này phù hợp với bối cảnh ASEAN, nơi các công cụ quy phạm của khối này thường được xây dựng bằng các thuật ngữ khái quát, là kết quả của sự thỏa hiệp chính trị trong quá trình soạn thảo. Tình trạng này kéo dài do sự thiếu vắng các cơ chế giải quyết tranh chấp và thực thi đáng tin cậy. Chẳng hạn, trong quá trình tố tụng được Philippines khởi xướng kiện Trung Quốc giai đoạn 2013 - 2016, Trung Quốc thường viện dẫn đoạn 4 của DOC (quy định về giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn và đàm phán giữa các bên có liên quan trực tiếp) để phủ nhận thẩm quyền của Tòa trọng tài và chỉ trích Philippines đã vi phạm các quy định của DOC.

Đọc thêm...

东盟与中国在制定COC磋商中必须警惕的“陷阱”(第一期)

08:26 |
BĐN - 2002年,东盟与中国签订政治色彩浓于法律约束力的东海各方行为宣言(以下简称宣言)在实践中没有带来预期效果,宣言刚出台就遭到践踏导致东海安全局势复杂化。因此,当前迫切需求是制定东海行为准则(以下简称准则)来约束各方行为,避免东盟一些国家与中国东海主权之争因误判而导致地区局势动荡不安。2011年,宣言落实指针得以开通。20139月,东盟成员国与中国开始就准则展开磋商。从2013年至2016年,因中方对此问题心不在焉,磋商只集中于求同存异和程序问题。到了2017年中期,中国改变口径,对准则表示浓厚兴趣。这为20178月通过准则框架草案铺平道路。20186月又出台准则单一磋商文本草案。这样看来,准则的前景好像是灿烂的。但是,仔细观察中国过去期间为独霸东海而采取的所有办法与活动,不难看出东盟与中国的准则磋商过程充满了陷阱,东盟一旦中计掉入陷阱那就是灭顶之灾。现将该陷阱列举如下,东盟各国务必小心。
第一,中国将利用一切机会和时机展开媒体大战,特别值得注意的是,进行预先设计的联合行动,旨在引导国内外舆论的态度与走势,激起国内民族情绪,刺激军队的战斗精神,软化对方的意志。让我们看看,中国言行是怎样做的。
众所周知,由于近期准则磋商有所进展,东盟的文件或声明在谈到准则时语气十分乐观。例如:一、2019623日曼谷第34次东盟峰会主席声明说,受到准则磋商实质性进步的鼓舞。二、菲律宾防长德尔芬-洛伦扎纳在 20196月香格里拉对话会上说:准则出台对大家都有好处,主权声索各方和参与谈判各方的忧虑将迎刃而解。中国利用东盟声明的积极语气在各次外交接触或准则磋商中不断抛出谈判顺利东海风平浪静的厥词。中国总理李克强在新加坡2018年东盟中国峰会上宣布,由于中国与东盟国家的积极配合,东海局势缓和了,准则磋商进展顺利。这是近期中国各级部门谈到东海问题时的口头禅。
现实情况却完全相反。从2018年至今,中国继续在其非法占领的东海岛礁上加紧军事化活动,部属H-6K轰炸机、远程进攻武器、提升军事力量展开能力海洋认识程度,为中国对整个东海的巡逻和控制创造条件。中国继续对东盟一些国家施加压力,暗中胁迫他们停止与域外国家在东海的石油合作项目。中国利用他在东海的军事压倒优势(包括海军、海岸警卫队、海上民兵、武装渔船)对在本国主权海域作业的他国船只进行骚扰和阻碍活动。
中国的上述行动迫使与中国存在东海主权争端的国家轮番发出抗议呼声,其他国家则感到忧虑。中国却在一切能够利用的场合喧嚷东海风平浪静的假象,利用准则磋商谋私利。两年来,中国展开了以准则磋商拉拢东盟国家的战役,从接受准则单一磋商文本草案到建议2019年结束首次通过会议,并承诺准则将于2021年出台。首次通过会议的意义至今仍然模糊不清,但它会蒙骗其他国家准则磋商真的顺利,而实际上中国所提出的一切只不过是程序而已。 
与此同时,中国继续展开封嘴打战术。与中国存在东海主权争议的国家正受到来自中国的私下的软威胁,有的国家被迫屈从单独与中国暗地里解决自己对中国的不满。这使东盟国家公开强有力谴责中国侵略行为的呼声平息下来,甚至被迫闭嘴,而那些怀柔的声音却鹊起。例如,2019年6月9日,一艘中国船撞沉菲律宾渔船,使22名菲律宾渔民落水,中国船却不顾不救长扬而去。杜特尔特总统却说这是航海小事故,但是他在第34次东盟峰会上却对准则磋商的迟缓表示忧虑和失望。尽管他承认说:准则出台越被迟缓就有越多的航海事故发生,误判就越会超出控制范围,人家看到杜特尔特的言论纯属诡辩,他把菲律宾渔船被撞翻的事件归咎于准则谈判迟缓,而不对中国惨无人道的行径加以严厉谴责。
最近,在2019年香格里拉对话会上,由于受制于中国,地区国防部长们对中国侵犯他国主权的行径发出的谴责与抗议呼声实在太小。第一位大声严厉谴责中国的却是美国代理国防部长沙纳汗。他说:中国的行动使这些国家不能利用自己专属经济区的资源渔民的生计遭到威胁,他们被拒绝进入他们祖辈捕鱼的海域。他揭露中国现行行动是利用亲善论调转移对不亲善行动的视线

Đọc thêm...

ASEAN cần cảnh giác “cạm bẫy” của Trung Quốc trong quá trình đàm phán COC (phần 1)

08:22 |
Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN ký Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (DOC), nhưng tuyên bố trên mang tính chính trị nhiều hơn là ràng buộc pháp lý nên trên thực tế, nó không mang lại nhiều hiệu quả như mong muốn. Ngay sau khi ra đời, DOC đã liên tiếp bị vi phạm, làm cho tình hình an ninh trên Biển Đông diễn biến phức tạp. Vì thế, yêu cầu bức thiết là phải có Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm kiểm soát hành vi và tránh những tính toán sai lầm gây bất ổn khu vực do những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á. Sau khi hướng dẫn thực hiện DOC được khai thông vào năm 2011, vào tháng 9/2013, các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc bắt đầu bắt tay vào các cuộc tham vấn chính thức về COC. Từ năm 2013 đến năm 2016, các cuộc tham vấn chỉ tập trung vào việc tích lũy những điểm tương đồng và thảo luận về các vấn đề mang tính thủ tục do Trung Quốc không mặn mà với vấn đề này. Nhưng từ giữa năm 2017, Trung Quốc đã đổi hướng và áp dụng cách tiếp cận hướng về phía trước nhiều hơn đối với COC. Điều này đã mở đường cho việc thông qua dự thảo khung COC vào tháng 8/2017 và đưa ra Văn bản dự thảo đàm phán duy nhất (SDNT) vào tháng 6/2018. Tương lai để có COC xem ra rất sáng sủa. Nhưng xem xét kỹ những gì Trung Quốc thi thố trong thực hiện ý đồ “độc chiếm” Biển Đông thời gian qua cho thấy, tiến trình đàm phán COC giữa Trung Quốc với ASEAN, không thể không có những “cạm bẫy” tiềm tàng do Trung Quốc giăng ra để ASEAN mắc phải, trúng kế Trung Quốc mà dẫn tới thiệt hại. Có mấy “cạm bẫy” sau, các nước ASEAN cần lưu tâm.
Thứ nhất, Trung Quốc triệt để lợi dụng mọi cơ hội, thời cơ để thực hiện cuộc chiến tranh thông tin tuyên truyền, trong đó tập trung vào các hoạt động phối hợp có chủ ý, được thiết kế trước để định hình thái độ và hành vi của dư luận trong và ngoài Trung Quốc, qua đó không chỉ giúp tập trung tinh thần dân tộc, truyền cảm hứng chiến đấu cho quân đội, mà còn làm giảm tinh thần của đối phương. Hãy xem Trung Quốc nói và làm về vấn đề này như thế nào.
Như mọi người đã rõ, do những tiến bộ gần đây trong tiến trình COC, nên các văn kiện và tuyên bố của ASEAN đưa ra đều nhất trí đề cập tới COC tương lai bằng giọng điệu tích cực hướng về phía trước. Ví dụ: 1/ Tuyên bố của Chủ tịch tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 34 tổ chức ở Bangkok ngày 23/06/2019 đã viết “được khuyến khích bởi sự tiến bộ của các cuộc đàm phán thực chất hướng tới việc sớm hoàn tất một COC hiệu quả và thực chất”. 2/ Tại Đối thoại Shangri-La (SLD) tháng 6/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana nói “nếu COC cuối cùng được hoàn tất thì sẽ có lợi cho tất cả mọi người. Điều đó sẽ giải quyết mọi mối quan ngại của các bên có tuyên bố chủ quyền và các bên tham gia”. Lợi dụng những tuyên bố tích cực trên của ASEAN, Trung Quốc liên tục sử dụng cụm từ “tiến bộ” trong các cuộc tiếp xúc ngoại giao hay đàm phán COC để biện minh rằng, “Biển Đông hiện vẫn yên bình”. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc năm 2018 ở Singapore: “Nhờ có những nỗ lực phối hợp của Trung Quốc với các nước ASEAN, tình hình ở Biển Đông đã lắng dịu, các cuộc tham vấn về COC đã được tiến hành suôn sẻ”. Đây là điệp khúc phổ biến trong các tuyên bố của Trung Quốc có liên quan tới Biển Đông ở tất cả các cấp trong thời gian qua.
Thế nhưng, thực tế lại hoàn toàn khác. Từ năm 2018 đến nay, Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các cấu trúc địa hình mà nước này chiếm đóng trái phép tại Biển Đông, trong đó có việc triển khai máy bay ném bom H-6K, một loại vũ khí tấn công tầm xa, làm gia tăng đáng kể “năng lực triển khai sức mạnh” và “nhận thức về lĩnh vực hàng hải”, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tuần tra và kiểm soát của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc cũng gây sức ép và đưa ra những lời đe dọa ngầm, buộc một số nước phải từ bỏ hợp tác thăm dò dầu khí với các nước bên ngoài khu vực; tận dụng sự hiện diện áp đảo về sức mạnh quân sự trên biển (bao gồm hải quân, lực lượng bảo vệ bờ biển, dân quân biển và tàu cá có vũ trang) để triển khai các hoạt động gây cản trở và gây rối tàu bè của các quốc gia khác khi họ đang hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền của họ.
Những hoạt động trên khiến cho các nước có tranh chấp với Trung Quốc thay nhau lên tiếng phản đối, các nước khác rất lo ngại. Ấy thế mà, Trung Quốc vẫn không ngừng quảng bá câu chuyện “Biển Đông vẫn yên bình” ở bất cứ đâu khi có cơ hội, tiếp tục lợi dụng tiến trình đàm phán COC để thực hiện mưu đồ riêng của mình. Hai năm qua, Trung Quốc đã tiến hành chiến dịch “tạo cảm tình” đối với ASEAN về COC, từ việc nhất trí dự thảo khung và SDNT, cho tới đề xuất kết thúc “phiên họp thông qua đầu tiên” trong năm 2019 và cam kết COC sẽ ra đời vào năm 2021. Ý nghĩa của “phiên họp thông qua đầu tiên” hiện vẫn rất mơ hồ, nhưng nó dễ đánh lừa các nước về sự “tiến bộ” trong đàm phán COC cho dù tất cả những gì được đưa ra không hơn gì một tiến trình.
Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục dùng chiến thuật “bịt mồm để đánh”. Các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc đang chịu nhiều sức ép ngầm, mềm từ phía Trung Quốc, có nước buộc phải giải quyết những bất bình của mình một cách kín đáo và song phương với Trung Quốc. Điều này khiến cho những tiếng nói mang tính chỉ trích mạnh và công khai đối với Trung Quốc trong các nước ASEAN lắng xuống, thậm chí phải im lặng, trong khi đó những tiếng nói mang tính xoa dịu lại có xu hướng thúc đẩy. Chẳng hạn, ngày 09/06/2019, một tàu cá Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm rồi bỏ mặc 22 thuyền viên trong tình trạng nguy hiểm. Thế nhưng, phản ứng trước sự kiện, Tổng thống Duterte một mặt cho rằng, đây là “sự cố nhỏ về hàng hải”; mặt khác lại “bày tỏ quan ngại và thất vọng trước sự chậm trễ trong các cuộc đàm phán COC” tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 34. Mặc dù ông này thừa nhận, “càng trì hoãn việc sớm hoàn tất COC, thì khả năng diễn ra các sự cố hàng hải càng cao và khả năng tính toán sai lầm có thể vượt khỏi tầm kiểm soát càng lớn”. Nhưng người ta lại thấy cái cách lập luận của ông Duterte là ngụy biện vì ông đã đổ lỗi cho tiến trình COC kéo dài thay vì đưa ra sự chỉ trích thẳng thắn nhằm vào những hành động vô nhân đạo của Trung Quốc.
Gần đây nhất, tại SLD 2019, do chịu sức ép của Trung Quốc, tiếng nói mang tính chỉ trích, phản đối hành vi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền các quốc gia của bộ trưởng quốc phòng các nước trong khu vực cũng yếu ớt. Trong khi đó, người lên tiếng đầu tiên và chỉ trích mạnh mẽ Trung Quốc lại là quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Shanahan. Ông Shanahan cho rằng: “Hành động của Trung Quốc đã làm cho các quốc gia không thể tận dụng tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ” và “sinh kế của ngư dân đang bị đe dọa khi họ bị từ chối tiếp cận vùng biển mà tổ tiên họ đã đánh cá qua nhiều thế hệ”. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gọi cái cách mà Trung Quốc đang hành động hiện nay là “sử dụng luận điệu thân thiện để đánh lạc hướng những hành động không thân thiện”.

Đọc thêm...

我党关于海洋经济可持续发展与维护祖国海洋海岛主权相结合的观点

18:21 |
QPTD-海洋是人类的生存空间,对人类发展进程起着举足轻重的作用。目前,在陆地非可再生资源因过度开发而日益耗竭的背景下,海洋则显得非常重要。几乎所有国家尤其是沿海国家都趋于面向海洋,以便于谋求发展。因此,海洋不仅是一种资源和生存空间,还成为各国海洋主权争端的敏感复杂之地。每个国家要面临的问题是要施行海洋战略,实现海洋经济发展与维护国家安全紧密联系,尤其是海洋经济发展与国防安全建设、维护海洋主权、主权权利相结合。这也是二十一世纪中海洋国家的目标与核心利益。
越南海洋和岛屿的潜力与优势
作为海洋国家,越南被大自然赐予广阔的海域,专属经济区面积约为一百万平方公里(是陆地面积的三倍),拥有大小岛屿3000余座,大小海湾48个,海岸线全长3260公里。东海上的越南海域不仅自海产矿产资源储量丰富,还是印度洋与太平洋,欧洲、中东与中国、日本及地区和世界各国之间贸易交往的航海航空交通枢纽。正因如此,越南对地区乃至世界具有极大的战略地位,并在各大国战略中具有极大的影响。这既是我国的优势,也是国家发展与融入国际进程的一种挑战。
在卫国事业中,包括上千座岛屿的越南海域成为我国东部、南部和西南部的重要盾牌。历史上几乎所有针对我国的侵略战争都在海洋方向。目前,东海存在主权争端,并成为各大国争夺利益和影响力的焦点,致使本就复杂的东海地区变得更加复杂和敏感且难以预测。这一切一直并将对越南海洋战略及海洋经济发展战略产生多方面的影响。
我党关于海洋经济可持续发展与维护海洋和岛屿主权相结合的一贯主张
由于充分认识到东海及其他海域的重要性,我党在正确评估各方面情况的基础上,将海洋和岛屿确定为国家领土主权不可分割的一部分,与陆地领土一样是越南民族可持续发展的生存空间。我党、政府继承前辈关于确定海洋和岛屿主权的思想,进一步补充完善并发展海洋战略,利用开发海洋资源,加快国家发展进程,维护海洋和岛屿主权。据此,越共第七届中央政治局于199356日颁布了关于目前阶段海洋经济发展的若干任务,肯定了海洋与海洋经济对国家经济发展的重要作用与战略地位。
19966月,越共八大首次讨论海洋领域的发展问题尤其是推动海洋经济发展与国防安全建设,维护海洋和岛屿主权相结合,其中明确:海洋和沿海地区是经济发展与国防安全建设的战略要冲,具有发展优势,是全国扩大国际交流和引进外资的重要门户。充分开发海洋和沿海地区的潜力与优势并将其与国防安全建设相结合,为国家经济社会发展与维护祖国海洋主权创造优势与实力。”1997922日,中央政治局颁布了关于朝着工业化现代化方向推动海洋经济发展20-CT/TW号指示。
20064月,越共十大肯定:推动海洋经济发展要全面开展,也要抓好核心把握重点,发挥比较优势,将我国发展成为国防安全建设与国际合作相结合的海洋经济强国。完善规划并发展港口系统与海运、石油开发炼制、海产品开发加工、旅游业。推动造船业及辅助工业发展,形成沿海经济带,促进岛屿经济社会发展与国防安全建设相结合。
本着将我国发展成为靠海致富的海洋强国的目标,越共第十届中央委员会第四次会议于200729日通过了“2020年前越南海洋战略09-NQ/TW号决议。《战略》总体目标是力争实现靠海致富的海洋强国梦,维护海洋和岛屿主权,为国家工业化现代化事业作出贡献。
十一大以来,海洋经济发展与维护海洋和岛屿主权相结合的主张根据实际情况得到进一步落实。2011年补充完善版社会主义过渡时期的国家建设纲领明确指出:每一战略和规划、每个经济社会发展政策和每个地方都应实现经济发展与国防安全建设相结合。其中强调促进海洋经济发展与维护海洋和岛屿主权的主要内容和基本措施:加强规划工作,促进基础设施建设,实现战略要冲海洋和岛屿经济建设与国防安全建设紧密联系并提出作战方案维护海洋和岛屿主权,注重建立民心阵势,加强民族团结,实现军民一致。同时,推动海洋经济发展,改善提升人民的精神物质生活质量,发挥人民的当家做主权,创造社会共识。
尤其是党十二大进一步肯定:海洋经济旨在加强国家经济建设,维护海洋和岛屿主权。注重发展石油工业、远海开发、渔业后勤、航海经济(港口服务、造船修船、海运等)、海洋和岛屿旅游。为海洋经济结构转移和增长创造突破口,进一步引进各方面的投资,促进经济发展和环保工作,应对气候变化,永续利用海洋和岛屿资源……”
认真贯彻党十二大决议精神,并在根据09-NQ/TW号决议落实十年经验及世界和地区形势的基础上,中央委员会于20181022日颁布了关于“2030年前及2045年展望的越南海洋经济可持续发展战略
如此来看,我党对海洋和岛屿的理论思维不断得到完善和发展并具体化为越南海洋战略。《战略》不仅确定了五年、十年的发展,还提出了20年的发展展望(2045年),其中体现我党的一贯主张:越南海洋和岛屿是祖国神圣主权的重要组成部分,是越南民族的发展和生存空间,对新时期建国卫国事业具有特别重要的地位。越南海域拥有极大的潜力与优势,但也是复杂敏感之地,隐藏着难以预测的危机和挑战。这让我国拥有地缘政治和地缘经济双重地位,为国家发展提供积极效益,但也对卫国事业提出极高的要求。鉴于自然历史,并根据我国在国际舞台上的地位,我党、政府提出了许多关于海洋的主张和政策,旨在有效开发利用海洋潜力与优势,加强国防安全保障,保护环境,为促进国家工业化现代化事业作出贡献。
为了胜利实现将越南建设成为靠海致富的海洋强国梦,维护祖国独立、主权、统一和领土完整,全党、全民及全军要尽最大努力,发挥高度责任感。(未完待续)

Đọc thêm...

Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

18:10 |
QPTD-Biển và đại dương là không gian sinh tồn của con người, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Hiện nay, trước xu hướng nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền dần cạn kiệt do sự khai thác quá mức của các quốc gia thì biển và đại dương lại càng trở nên quan trọng. Hầu hết các quốc gia, nhất là các quốc gia có biển đều hướng ra biển và đại dương nhằm phục vụ nhu cầu phát triển của mình. Từ sự chuyển dịch chiến lược đó, biển không chỉ là nguồn lợi, không gian sinh tồn, mà còn là nơi nhạy cảm, phức tạp do sự tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền trên biển giữa các quốc gia. Thực tiễn đó đặt ra cho mỗi quốc gia có biển phải có chiến lược về biển nhằm phát triển đất nước gắn chặt với bảo vệ an ninh quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, bảo vệ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Đó là mục tiêu, lợi ích cốt lõi của các quốc gia có biển trong thế kỷ XXI.
Biển, đảo Việt Nam - tiềm năng, lợi thế
Là quốc gia biển, Việt Nam được thiên nhiên “ban tặng” vùng biển rộng, có diện tích vùng đặc quyền kinh tế khoảng một triệu ki-lô-mét vuông (gấp 03 lần diện tích đất liền), hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, 48 vũng, vịnh và chiều dài bờ biển lên tới 3.260 km. Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông - nơi không chỉ có nguồn tài nguyên phong phú, trữ lượng lớn về hải sản, khoáng sản, mà còn là đầu mối giao thông hàng hải, hàng không huyết mạch giao thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản, các nước trong khu vực và trên thế giới. Cũng vì thế, Việt Nam có vị trí địa chiến lược đối với khu vực và thế giới, có tầm ảnh hưởng lớn trong chiến lược của các cường quốc. Điều đó vừa là lợi thế lớn, vừa là thách thức không nhỏ đối với nước ta trên con đường phát triển và hội nhập quốc tế.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vùng biển Việt Nam với hàng nghìn đảo, quần đảo trở thành “tấm lá chắn” ở sườn Đông, Nam và Tây Nam của đất nước. Thực tế trong lịch sử, phần lớn các cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, kẻ thù đều tiến hành từ hướng biển. Hiện tại, Biển Đông đang có tranh chấp chủ quyền, ranh giới giữa một số nước trong khu vực và trở thành tâm điểm tranh giành lợi ích, tầm ảnh hưởng giữa các nước lớn rất quyết liệt, làm cho tình hình ở khu vực này vốn đã phức tạp lại càng phức tạp, nhạy cảm và khó dự báo hơn. Tất cả điều đó đương nhiên đã và đang tác động nhiều chiều, cả tích cực và tiêu cực đến chiến lược biển, phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Quan điểm nhất quán của Đảng ta về phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Biển Đông và vùng biển Việt Nam, cũng như đánh giá đúng tình hình mọi mặt, Đảng ta luôn xác định biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền của Tổ quốc và cùng với đất liền là không gian sinh tồn, phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam. Kế thừa tư tưởng của ông cha ta về xác lập chủ quyền biển, đảo, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển chiến lược hướng ra biển, khai thác nguồn lợi từ biển để đẩy nhanh tiến trình phát triển đất nước gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Theo đó, ngày 06-5-1993, Bộ Chính trị (khóa VII) ban hành Nghị quyết 03-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”, khẳng định tầm quan trọng và vị trí chiến lược của biển và kinh tế biển trong nền kinh tế quốc dân.
Đến Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996), lần đầu tiên Đảng ta bàn về phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển, đặc biệt là các giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo; trong đó, xác định rõ: “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc”. Tiếp đó, ngày 22-9-1997, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Tại Đại hội X (tháng 4-2006), Đảng ta khẳng định: “Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ bổ trợ. Hình thành một số hành lang kinh tế ven biển. Nhanh chóng phát triển kinh tế - xã hội ở các hải đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh”.
Với mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, ngày 09-02-2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết 09-NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kết thúc 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao, quan hệ kinh tế của nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng thông qua thực hiện các hiệp định đa phương và song phương, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ sau Đại hội XI của Đảng đến nay, chủ trương phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo được đẩy mạnh và có điều chỉnh chi tiết, phù hợp với tình hình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ: cần kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh; quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn. Trong đó, nhấn mạnh những nội dung trọng tâm và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, như: tăng cường công tác quy hoạch; xây dựng kết cấu hạ tầng; xây dựng các vùng biển, đảo ở địa bàn chiến lược gắn kết chặt chẽ với quá trình tăng cường lực lượng, tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh và nhiệm vụ, phương án, kế hoạch tác chiến và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, thực hiện quân với dân một ý chí. Đồng thời, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội.
Đặc biệt, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vững…”.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đại hội XII, trên cơ sở kết quả, kinh nghiệm qua 10 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW và những phát triển mới về tình hình khu vực, thế giới, ngày 22-10-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Như vậy, qua các kỳ đại hội, tư duy lý luận của Đảng về biển và vùng biển của Tổ quốc không ngừng phát triển, hoàn thiện, được cụ thể hóa bằng Chiến lược biển Việt Nam. Chiến lược không chỉ xác định rõ sự phát triển trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, mà còn có tầm nhìn trên 20 năm (2045); trong đó, thể hiện rõ chủ trương nhất quán của Đảng: biển, đảo Việt Nam là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, phát triển của dân tộc ta, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Mặc dù sở hữu vùng biển giàu tiềm năng, lợi thế, nhưng cũng là nơi diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những thách thức, nguy cơ mất ổn định, khó dự báo. Điều đó tạo cho nước ta một vị thế kép cả về địa chính trị và địa kinh tế, tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại để phát triển đất nước, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ vị trí tự nhiên - lịch sử, cùng với vị thế, uy tín trên trường quốc tế của nước ta, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về biển, nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế trên biển, vùng ven biển, hải đảo, bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường và sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, gắn với bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi sự nỗ lực lớn, trách nhiệm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Đọc thêm...

日本2019年版防卫白皮书对中国在东海的行为 “严重关切”

08:23 |
越通社——日本防卫省于927日发布《2019版防卫白皮书》,对中国改变东海现状的单方面行为严重关切
2019年《防卫白皮书》中指出,中国正在不透明地增加军费。中国正在广泛且迅速地加强军力的质与量,包括增强核作战能力、火箭、空中和海上作战能力,企图增强 反介入/区域拒止”(A2/AD)能力以及中国军队远洋作战能力等。值得注意的是,日本在2019年《防卫白皮书》中指出, 中国改变东海现状的单方面行为值得严重关切
2019年《防卫白皮书》对一个单一国家无法自己解决的保障海洋安全、大规模杀伤性武器、网络安全和太空安全、地区冲突和跨国恐怖主义等的安全挑战表示担忧,同时呼吁加强国际合作予以解决这些问题。
《白皮书》继续强调日美同盟关系作为该国防务政策的三大支柱之一。在此基础上,日本正促进同美国在网络空间和太空合作、火箭防守、双边演习、海上安全保障等领域的合作。未来,双方将继续开展包括能力建设、搜寻救难、三方和多边演习、防务技术合作等在内的双边活动,意在强化日本和美国在印度太平洋地区的存在,以及维护该地区航行自由和航行安全。
提及日本与国际伙伴的关系时,此次的白皮书中,韩国排在澳大利亚、印度和东盟之后位列第四。2018年,韩国在此名单中排第二位置。
在提及朝鲜问题时,白皮书表示,近年来弹道导弹试验频率密集,同时认为此动态对日本构成严重的威胁。

Đọc thêm...

Sách trắng Quốc phòng Nhật quan ngại hoạt động Trung Quốc ở Biển Đông

08:11 |
TTXVN - Ngày 27/9, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã công bố Sách trắng Quốc phòng thường niên, trong đó thể hiện "quan ngại sâu sắc" về các hoạt động đơn phương thay đổi hiện trạng trên Biển Đông do Trung Quốc tiến hành.
Tài liệu trên nhận định Trung Quốc đang tiếp tục gia tăng chi phí quốc phòng một cách không minh bạch nhằm xây dựng quân đội lớn mạnh hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ 21.
Trung Quốc đang tích cực tăng cường sức mạnh quân sự cả về số lượng lẫn chất lượng, trong đó tập trung tăng cường năng lực tác chiến hạt nhân, tên lửa và tác chiến trên không, trên biển.
Việc tăng cường này sẽ dẫn tới việc nâng cao năng lực chống tiếp cận/ngăn cản khu vực (A2/AD) và năng lực tác chiến viễn dương của quân đội Trung Quốc.
Đáng chú ý, Nhật Bản nhận định các hoạt động đơn phương thay đổi hiện trạng trên Biển Đông do Trung Quốc tiến hành là "đáng quan ngại sâu sắc."
Trong phần mở đầu, Sách trắng nhận định tính chất không chắc chắn về trật tự thế giới hiện nay ngày càng tăng, trong khi đó sự cạnh tranh giữa các quốc gia về chính trị, kinh tế và quân sự ngày càng hiện rõ.
Sách trắng cũng bày tỏ quan ngại về những thách thức an ninh mà một quốc gia đơn lẻ không thể tự mình giải quyết được ngày càng tăng, như vấn đề bảo đảm an ninh trên biển, vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo đảm an toàn không gian mạng và vũ trụ cũng như các cuộc xung đột khu vực và khủng bố quốc tế. Từ đó, Nhật Bản kêu gọi sự hợp tác quốc tế để cùng nhau giải quyết những vấn đề này.
Sách trắng tiếp tục khẳng định quan hệ đồng minh Nhật-Mỹ là một trong 3 trụ cột trong chính sách quốc phòng của mình, bên cạnh xây dựng cấu trúc phòng thủ của riêng Nhật Bản và tăng cường hợp tác an ninh đa phương.
Trên cơ sở các trụ cột này, Nhật Bản đang thúc đẩy hợp tác với Mỹ trong nhiều lĩnh vực như hợp tác đối phó trên không gian mạng và vũ trụ, hợp tác phòng thủ tên lửa, tập trận song phương, bảo đảm an ninh trên biển...
Trong thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục tiến hành các hoạt động song phương như hỗ trợ xây dựng năng lực, cứu hộ cứu nạn, tập trận ba bên và đa phương, hợp tác công nghệ quốc phòng... nhằm tăng cường sự hiện diện của Nhật Bản và Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cũng như duy trì trật tự trên biển tự do và rộng mở tại khu vực này.
Một điểm đáng chú ý trong Sách trắng là căng thẳng quan hệ Nhật-Hàn dường như đã khiến Nhật Bản không đánh giá cao việc hợp tác quan hệ quốc phòng với Hàn Quốc như trước đây.
Trong phần đề cập tới quan hệ giữa Nhật Bản với các đối tác quốc tế, Hàn Quốc đứng thứ 4 sau Australia, Ấn Độ và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Năm 2018, Hàn Quốc đứng ở thứ 2 trong danh sách này.
Trong phần đề cập tới tình hình Triều Tiên, Sách trắng cho biết những năm gần đây, Triều Tiên đã thử nghiệm tên lửa đạn đạo với tần suất chưa từng có nhằm tăng cường khả năng hỏa lực và năng lực tấn công.
Thông qua thử hạt nhân để thành thạo về mặt kỹ thuật, Triều Tiên đang thực hiện làm nhỏ đầu đạn hạt nhân để lắp đặt cho tên lửa đạn đạo.
Sách trắng nêu rõ: "Những động thái quân sự này là mối đe dọa nghiêm trọng và cấp thiết của đất nước chúng ta, đồng thời gây tổn hại tới hòa bình và an ninh của khu vực cũng như thế giới."
Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng mặc dù Triều Tiên đã có một số động thái tích cực như đối thoại với Mỹ, hủy bỏ thử hạt nhân và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM), nhưng Bình Nhưỡng chưa phá hủy các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt và các loại tên lửa đạn đạo một cách hoàn toàn, có thể kiểm chứng và không thể đảo ngược./.

Đọc thêm...

发掘中国的弱点

23:10 |
     最近,越南包括电子网站在内的媒体发表大量文章强烈谴责中国在东海对越南进行的挑衅活动,说明越南对该海域的主权权利和管辖权的法理依据。中国媒体对此事件却避而不谈,只刊登中国外交部发言人关于中国模糊立场的例行新闻发布会消息。
     中国媒体完全被掌控在北京政权手中,而且以发表泼辣、颠倒黑白、蒙骗舆论的文章著称。那么,中国媒体这次为何鸦雀无声呢?
     中国海洋地质8 号船队返回思政滩后,越南外交部发言人2019816日对此提出抗议,要求中国撤走其船队。三天后,中国外交部发言人耿爽8月19日在例行记者会上含糊其辞地说:中国对南沙(即越南的长沙群岛)及附近海域拥有主权,对相关海域拥有主权权利和管辖权。他声称:中方有关作业船只一直在中国管辖海域作业希望有关国家切实尊重中方主权权利和管辖权
     首先必须指出,中国对思政滩的主权声索毫无法理依据,该海域依照1982年《联合国海洋法公约》的规定,完全位于越南专属经济区和大陆架内。中国外交部发言人谈到附近海域相关海域的概念,并对该海域声索主权、主权权利和管辖权。国际法中没有附近海域相关海域的概念。中国是否赋以自己提出模糊概念和另行书写法律的权力? 
     中国一直以来以两种论调为其东海主权声索辩护:一是对一名中国人1947年自行在地图上画出的《九断线》提出历史权声索,二是自认长沙(中方称《南沙》)群岛是中国的,中国享有该岛周边的海域,其中囊括了思政滩。这两种论调曲解、歪曲了1982年《联合国海洋法公约》的规定。
     常设仲裁庭2016年7月12日对菲-中东海仲裁案作出的裁决彻底驳斥了这两种论调。第一、中国对《九断线》的历史权声索与1982年《联合国海洋法公约》背道而驰,予以驳回。第二、长沙群岛的所有自然构造未达到依据1982年《联合国海洋法公约》121条规定的岛的标准,其最宽只有12海里的领海,不应有200海里专属经济区和大陆架。这样,长沙群岛无论属于哪个国家,这些实体都没有超过12海里的领海。 
     中国一直以来用于为其无理声索辩护的这两种论调被国际法彻底驳斥了,无一例外。中国心知肚明,中国媒体若报道中国有关作业船只在思政滩的勾当将是火上加油,将为名副其实的学者、研究家谴责中国的不法行为和高度评价常设仲裁庭的裁决敞开通道。中国三年来实现的阴谋是设法压制和无效化仲裁庭的裁决。
     中国在与有关国家谈及东海问题时一再要求内部解决,双边磋商解决,不要公开宣传等。中国的意图是遮掩真相,转移舆论视线。这是北京十分阴险的企图。一些研究专家指出:北京这是在蒙住相关国家的眼睛和嘴巴,然后各个击破。中国明白,若媒体多多报道思政滩事件将为美国及其他国家发出反对声音创造机会,置北京于困境之中。
     显然,这是北京在东海问题和思政滩事件中的弱点。东海周边国家,尤其是处在事件漩涡中的越南应利用这一点来抗拒中国的侵凌行为。越南应尽快通过国内外媒体传播思政滩的法理依据,广泛散发相关资料和法理依据,让国际社会和中国人了解真相。
     所以,在东海问题和思政滩事件中与中国对峙的越南应致力发掘中国的弱点并发挥越南的优势,应厘清越南对思政滩拥有主权权利和管辖权的法理依据,公诸于世中国在那里的所作所为的细节,比如所谓的地质考察,碰撞越南海警船,向越南海警船打水炮等挑衅行动。
     纽约大学法律教授科恩(Jerome Alan Cohen)指出:越南除与东盟国家结盟、向世界展示越南的法理依据外,还要主动在诸如联合国大会的国际论坛阐述自己的立场。世界希望听到越南更多的声音,看到英语版的有关东海争端的新闻报道、专业研究论文和越南在各次国际论坛上的讲演等等。
 科恩教授的意见很中肯。越南应加大宣传力度,在捍卫国家海岛主权斗争中,具体是在捍卫遭到北京当权者侵犯的思政滩的主权权利和管辖权的斗争中,对准中国的死穴狠打,让国际社会和中国人了解真相。   
    
Đọc thêm...

Hot (焦点)