2019年10月越南接待国际游客量刷新纪录

09:31 |
越南统计总局1029日公布的数据显示,今年10月,越南接待国际游客量创下新纪录,达近162万人次,同比增长了34.3%。这同时也是2019年年初以来国际游客接待量增长速度最快的月份。
统计数据还显示,今年前10月,越南接待国际游客量达近1450万人次,同比增长13%,其中,中国和韩国游客占近56%
10月,亚洲游客占越南国际游客接待总量的79.5%,同比增长15.2%,欧洲游客增长5.5%等。
201910月初举行的2019年度世界旅游大奖亚洲及大洋洲地区颁奖礼上,越南旅游业被列入2019年亚洲最佳旅游目的地、2019年亚洲最佳饮食目的地、2019年亚洲最佳文化目的地等奖项提名名单,其中会安市荣获2019年亚洲最佳文化目的地奖,有助于肯定越南旅游业在地区和世界上的地位,同时也是越南旅游业加大宣传推广力度的契机。

Đọc thêm...

Việt Nam đón lượng khách quốc tế cao kỷ lục trong tháng 10

09:21 |
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/10, trong tháng 10/2019, ngành du lịch Việt Nam đón lượng khách quốc tế cao kỷ lục từ trước đến nay, đạt gần 1,62 triệu lượt, tăng 34,3% so với cùng kỳ năm 2018. Đây cũng là tháng có tốc độ tăng trưởng cao nhất đến nay trong năm 2019.
Cũng theo số liệu thống kê, 10 tháng của năm 2019, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt gần 14,5 triệu lượt, tăng 13% so với cùng kỳ 2018. Trong số đó, khách Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm gần 56% lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
Theo đánh giá của Tổng cục Du lịch, đây là mức tăng trưởng ấn tượng, cao hơn đáng kể mức bình quân chung của thế giới cũng như khu vực theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO).
Theo UNWTO, trong 6 tháng đầu năm 2019, khách quốc tế trên toàn cầu tăng trưởng 4%, trong đó châu Á-Thái Bình Dương tăng 6%, Đông Nam Á tăng 5%...
Kết quả tăng trưởng trong 10 tháng của năm 2019 có đóng góp quan trọng từ kết quả nỗ lực từ tháng Bảy đến tháng 10 với mức tăng trưởng gần 22% so với cùng kỳ 4 tháng năm 2018.
Trong 10 tháng qua, khách quốc tế từ các nhóm thị trường nguồn trọng điểm của du lịch Việt Nam đều tăng trưởng.
Trong 10 tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ châu Á chiếm 79,5% tổng số khách quốc tế, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, thị trường Trung Quốc tăng 9,4%.
Nhóm 3 thị trường lớn ở Đông Bắc Á gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) tăng rất cao. Trong số đó, Hàn Quốc tăng 22,1%, riêng tháng 10 tăng 19%; Nhật Bản tăng 15%, riêng tháng 10 tăng 23,0%; Đài Loan (Trung Quốc) tăng 29,5%, riêng tháng 10 tăng 44%.
Nhóm các thị trường quan trọng ở Đông Nam Á tăng trưởng ấn tượng. Trong đó, điểm nhấn là thị trường Thái Lan liên tục duy trì tốc độ tăng kỷ lục trong năm nay, cao nhất trong các thị trường nguồn với 47,7%, riêng tháng 10/2019 tăng 60,3%.
Cùng với đó là khách từ Malaysia tăng 3,6%; Philippines tăng 19,5%; Indonesia tăng 20,3%. Singapore sau 10 tháng năm 2019 đã vượt qua Pháp để xếp ở vị trí thứ 11 trong các thị trường gửi khách lớn nhất đến Việt Nam.
Thị trường Ấn Độ tăng cao với 23,4%, riêng tháng 10 tăng 39,7%. Những kết quả đạt được cho thấy xu hướng tăng trưởng mới từ các thị trường gần trong khu vực và châu lục.
Khách châu Âu tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng ở hầu hết các thị trường. Trong số đó, khách từ Liên bang Nga tăng 4,8%; Vương quốc Anh tăng 5,8%; Pháp tăng 1,7%...
Tại lễ trao Giải thưởng Du lịch thế giới lần thứ 26 (World Travel Awards) dành cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương năm 2019 diễn ra đầu tháng 10/2019 tại Phú Quốc, du lịch Việt Nam được xướng tên ở 4 hạng mục hàng đầu châu Á. Đó là các hạng mục: Điểm đến hàng đầu châu Á 2019, Điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á 2019, Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á 2019 và Thành phố Hội An được trao tặng danh hiệu Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á 2019.
Đây là những giải thưởng rất đáng tự hào, góp phần khẳng định vị thế du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là "cơ hội vàng" để ngành du lịch Việt Nam tăng cường công tác xúc tiến quảng bá mạnh mẽ trong thời gian tới. Các giải thưởng cũng cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong công tác xúc tiến quảng bá. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên ẩm thực Việt Nam được tổ chức danh giá tầm thế giới như World Travel Awards công nhận.

Đọc thêm...

让海洋和岛屿永远是生存和发展的空间(第二期)

20:01 |
(二)促进海洋经济发展与维护海洋
和岛屿主权相结合的成就与缺陷
QPTD - 认真贯彻我党的观点与路线,近年来我军民努力开展海洋经济发展与维护海洋和岛屿主权相结合,取得了重要的成就。值得一提的是,中央到地方各级各部门整个政治体系和全国人民尤其是沿海省份人民对海洋经济发展与维护海洋和岛屿主权相结合的任务认识清楚,出现重大积极转变。尤其是充分认识两大战略任务,把握我党关于维护海洋和岛屿主权以及保持和平稳定的环境以便于推动国家发展的观点之核心内容,肯定越南对黄沙群岛、长沙群岛等海域拥有主权的法律依据和历史证据,了解掌握永续利用海洋资源、保护海洋环境的指导观点以及在祖国各海域和岛屿上开展实现经济社会发展与国防安全建设相结合目标的顺利条件和困难问题。
与此同时,有关海洋和岛屿的法律政策体系、国家管理机构进一步得到完善,在实践中发挥着作用。这一重要成果为祖国海洋和岛屿促进海洋经济发展与加强国防安全建设相结合提供前提条件。越共十大于200729日颁布“2020年前越南海洋战略09-NQ/TW号决议之后,政府、国会将其予以体制化,通过各项议定书、决定、法律规定,为实施管理维护和促进海洋经济发展与国防安全建设相结合提供法律依据。在此基础上,各级各行业各地方集中力量投入基础设施建设,为海上生产与开发作业活动提供便利,随时应付海上复杂情况。许多合乎民意的新政策得到颁布,尤其是鼓励人民上岛定居生活并为其提供便利,让其发展经济建设,维护祖国海洋和岛屿主权。目前,我国海洋经济和沿海经济大有起色,朝着积极方向发展,成为全国经济发展的驱动力。海洋经济结构做出了合适的调整,出现了先进技术的新产业,优先投入发展尖端的海洋经济,如:油气开发、造船业、远洋开发、海上运输、海上搜救等。因此,海洋经济对国民经济的占比明显提高,云屯、吉海、昆仑岛、富国岛等岛屿已经成为海洋经济发展中心。
管理维护国家主权与海上安全的执法力量,即海警、渔检、边防部队、海军等力量得到投入建设,健全组织编制,有效开展对主权海域各活动的国家管理工作,各力量经常紧密配合实施任务,尤其是确保航行安全、防止和打击犯罪或发生海上复杂情况之时,有关力量紧密协调配合解决问题。不仅如此,这些力量还扩大与地区各国有关力量的关系,积极配合开展联合演习、搜救救助等活动。
在党、国家与国防部的关照下,海洋和岛屿上的边海防系统得到加强建设,各级护岛作战方案经常得到补充和挑战。针对各种对象尤其是渔民等直接在海上进行作业的力量的海洋和岛屿的宣传工作、国防安全教育得到推动。因此,海区人民与当地武装力量的团结得到加强,为海上民心阵势强大建设、全民国防与人民安全相结合的阵势建设、全民边防阵势强大建设作出贡献。认真贯彻落实党对合作伙伴与作战对象、边合作边斗争的观点,海上有关力量妥善处理了各种情况,包括海上复杂情况,控制冲突发生。重要的是不能让敌对势力利用破坏我国与周边国家的友好关系,既能维护海洋和岛屿主权,又能为海洋经济发展营造和平的环境。
总体上,海洋经济规模有所扩大,但与潜力不相称,未能满足既定目标的要求。海洋经济收入主要来自传统的海洋经济产业,而潮汐能源、深海矿产开发、海洋化学物质、海洋药材等搞技术产业尚未得到集中研究。油气开发、造船业、航海运输等得到优先发展的尖端行业未能彻底利用机会、潜力与优势,甚至损失国家财产。油气开发和加工生产在化油产量与能力上遇到不少困难。造船业发展步伐缓慢,主要制造维修在沿海范围内作业的小船,营业额与经营效率低下。船队多为老旧船只,机构不合理(货船多,集装箱船等专用船少),主要在近海范围内运作。与此同时,海洋、沿海和岛屿上的基础设施极为落后,缺乏能够制造海洋经济突破口的先进的基础设施。港口、海洋经济区快速得到建设并不断扩大建设,但与交通基础设施发展不吻合,沿海高速公路上未得到修建,未能引进投资者。其原因是实力有限、投入泛滥,未能把握重点,投资缺乏纵深意义,未能分清短中长期投资建设,投资效果不高。
对于海洋和岛屿使用开发领域,专家和管理者作出评价表示效果低下,缺乏可持续性,不遵守规划,自发性发展,主要为使用落后技术的小型投资导致海洋资源耗竭、海洋生态体系失衡,红树林、潮间带、珊瑚岛面积缩小。尽管得到资助,但由于实施过程薄弱,远洋捕捞工具与设备质量低下,远洋捕捞未能发展。对气候变化恶化演变、海水高涨、海水入侵的预测工作未能发挥作用,导致应付效果不高,严重影响到沿海人民的生活与生产。海洋科学研究与培训基地、自然灾害观测预报与搜救基地规模较小,装设备较为落后,升级建设缓慢。海洋技术干部队伍在数量、质量和结构上未能满足工作的要求。
若干领域的海洋经济发展未能真正与国防安全建设相结合。若干沿海地区在制定沿海和岛上建筑规划、基础设施结构、工业区、沿海开发区规划上没有注重国防安全阵势建设方案、民心阵势阵势建设,主要追求经济利益,因此若干经济项目和经济活动影响到国防安全建设。经济国防区建设、锚地区、港口、渔业基础设施、防御工程建设的民事化进程较为缓慢。执法力量的基础设施、技术装备以及维护海洋和岛屿的武装力量的实力尽管得到加强建设,但也存在一些不足之处。东海上领土主权争端连续加剧,外国屡屡侵犯主权,阻止我国在专属经济区从事油气开采和渔业开发的正常作业活动。国内外敌对势力、反动势力、政治机会主义分子利用海洋和岛屿问题,破坏党和国家,捣乱社会秩序,影响海洋经济发展过程。
针对上述不足之处、困难和挑战,全党、全民与全军应采取同步科学措施,快速彻底解决问题,让越南海洋和岛屿永远是越南民族生存和发展的空间。(未完待续)

Đọc thêm...

Để biển, đảo mãi là không gian sinh tồn, phát triển (phần 2)

18:59 |
II. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế biển
 gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
(QPTD) - Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, những năm qua, quân và dân ta đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và đạt được những thành tựu quan trọng. Nổi bật là, nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và nhân dân, nhất là nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển và hoạt động trên biển về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc có sự chuyển biến rõ rệt. Đặc biệt, đã nhận thức sâu sắc hơn về hai nhiệm vụ chiến lược, nắm vững nội dung trọng tâm trong quan điểm của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển của nước ta, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nắm vững định hướng và những quan điểm khai thác bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, cũng như thấy rõ những thuận lợi, khó khăn, bất cập trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, v.v.
Cùng với đó, hệ thống chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Đây là thành tựu rất quan trọng, tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng - an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Theo đó, sau khi Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” ban hành, Chính phủ, Quốc hội thể chế hóa bằng các quyết định, nghị định, bộ luật,… đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo an ninh - quốc phòng trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, các bộ, ban, ngành Trung ương, địa phương đã tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế ổn định, vững chắc cho các hoạt động sản xuất, đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên, sẵn sàng ứng phó với các tình huống phức tạp xảy ra trên biển. Nhiều chính sách mới, hợp lòng dân được ban hành, nhất là việc khuyến khích, tạo điều kiện cho nhân dân ra đảo định cư lâu dài và lao động, sản xuất trên các vùng biển, đảo xa bờ, vừa phát triển kinh tế, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Đến nay, kinh tế biển và vùng ven biển của nước ta đã có nhiều khởi sắc, phát triển theo hướng tích cực, đang trở thành một trong những động lực để phát triển đất nước. Cơ cấu ngành, nghề kinh tế biển có sự điều chỉnh phù hợp, xuất hiện một số ngành nghề mới với công nghệ, kỹ thuật hiện đại, ưu tiên đầu tư, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, như: khai thác dầu khí, công nghiệp đóng tàu, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển. Nhờ đó, vai trò và tỷ trọng kinh tế biển trong nền kinh tế quốc dân tăng rõ rệt; một số đảo đã và đang phát triển thành những trung tâm kinh tế hướng biển, như: Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v.
Lực lượng chức năng quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển (Cảnh sát Biển, Kiểm ngư, Bộ đội Biên phòng và Hải quân) được đầu tư, kiện toàn tổ chức biên chế, trang bị, phương tiện kỹ thuật nên đã và đang thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động trên các vùng biển thuộc quyền; thường xuyên phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là các tình huống phức tạp trên biển, đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải, phòng, chống tội phạm, v.v. Không những thế, các lực lượng này còn mở rộng quan hệ, tăng cường hợp tác, tích cực tham gia tuần tra chung, diễn tập tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển với các lực lượng cùng chức năng của các nước trong khu vực.
Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, đến nay hệ thống phòng thủ biển, đảo được tăng cường; phương án tác chiến các cấp bảo vệ biển, đảo, quần đảo thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn. Công tác tuyên truyền biển, đảo, giáo dục quốc phòng và an ninh cho các đối tượng được đẩy mạnh, nhất là với ngư dân, các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển, ven biển. Nhờ đó, tăng cường sự đoàn kết gắn bó giữa nhân dân vùng biển với các lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận biên phòng toàn dân trên biển, đảo ngày càng vững chắc. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng về đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh, các lực lượng trên đã xử trí tốt mọi tình huống, kể cả tình huống phức tạp trên biển, kiềm chế được xung đột. Điều quan trọng là không để cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá mối quan hệ của nước ta với các nước láng giềng, trong khi vẫn đạt được mục tiêu giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc và môi trường hòa bình để phát triển kinh tế biển.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta cũng còn những hạn chế và đó cũng là những khó khăn, thách thức đặt ra, cần phải giải quyết trong thời gian tới. Trước hết, công tác tuyên truyền về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo chưa thật sâu rộng, nên chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, địa phương, người dân và doanh nghiệp nên hiệu quả tổ chức thực hiện còn hạn chế. Tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành có liên quan và người dân chưa được như mong đợi. Kinh nghiệm, trình độ quản lý biển, đảo chưa ngang tầm; hệ thống chính sách tuy đã được bổ sung và từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, hiệu lực thực thi thấp, v.v.
Về tổng thể, quy mô kinh tế biển mặc dù có tăng, song vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như mục tiêu, yêu cầu kế hoạch đề ra. Giá trị thu được từ hoạt động kinh tế biển vẫn chủ yếu từ các nghề biển truyền thống, trong khi các nghề biển công nghệ cao, như: năng lượng sóng thủy triều, khai thác khoáng sản dưới lòng nước sâu, hóa chất, dược liệu biển,… chưa được tập trung nghiên cứu. Các ngành kinh tế biển mũi nhọn được ưu tiên phát triển, như: dầu khí, đóng tàu, hàng hải, chưa tận dụng được cơ hội, tiềm năng, lợi thế để phát triển, thậm chí còn làm thất thoát số lượng lớn ngân sách nhà nước. Khai thác và chế biến dầu khí gặp nhiều khó khăn cả về sản lượng và năng lực chế biến các sản phẩm từ lọc hóa dầu. Ngành đóng tàu biển phát triển còn chậm; chủ yếu đóng, sửa chữa tàu nhỏ hoạt động ven bờ, doanh thu và hiệu quả thấp. Đội tàu biển phần lớn là tàu cũ, cơ cấu không hợp lý (thừa tàu chở hàng hóa, hàng rời, thiếu tàu container, tàu chuyên dụng), chủ yếu hoạt động trên các tuyến gần. Cùng với đó, kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu, lạc hậu, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại, vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế để tạo đột phá mạnh cho phát triển một số trung tâm kinh tế biển ở tầm quốc gia, khu vực. Hệ thống cảng biển, khu kinh tế biển được xây dựng mở rộng nhanh, nhưng còn thiếu đồng bộ với nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối bằng các tuyến đường bộ cao tốc chạy dọc ven biển nên chưa thu hút được các nhà đầu tư. Nguyên nhân là do nguồn lực hạn chế, đầu tư dàn trải, không có trọng tâm, trọng điểm, không phân định rõ các dự án ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, thiếu chiều sâu,... nên hiệu quả thấp.
Đối với lĩnh vực khai thác, sử dụng biển và hải đảo, các chuyên gia và nhà quản lý đánh giá là kém hiệu quả, thiếu bền vững, không tuân thủ quy hoạch, với phương thức tự phát, chủ yếu là đầu tư nhỏ và sử dụng công nghệ lạc hậu, nên làm cạn kiệt dần nguồn lợi hải sản và suy giảm các hệ sinh thái ven biển, như: rừng ngập mặn, vùng triều, rạn san hô, v.v. Đánh bắt xa bờ chưa phát triển, mặc dù có nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ, nhưng quá trình thực hiện yếu kém dẫn đến các phương tiện đánh bắt xa bờ chất lượng kém3. Công tác dự báo xu hướng diễn biến tiêu cực của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và biển xâm thực chưa đúng mức nên việc ứng phó kém hiệu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống nhân dân các vùng ven biển. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, khoa học - công nghệ biển, quan trắc, dự báo, cảnh báo thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,… còn nhỏ, trang bị thô sơ, chậm được đầu tư nâng cấp. Nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ về biển chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Quá trình phát triển kinh tế biển ở một số lĩnh vực chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với yêu cầu đảm bảo quốc phòng - an ninh. Một số địa phương ven biển khi xây dựng quy hoạch, kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, khu kinh tế tập trung, dự án kinh tế ven biển, trên đảo chưa chú trọng các phương án xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh, “thế trận lòng dân”, chủ yếu chạy theo lợi ích kinh tế nên để xảy ra tình trạng một số dự án, hoạt động kinh tế ảnh hưởng đến yêu cầu quốc phòng - an ninh. Quá trình dân sự hóa, xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, cảng biển, khu neo đậu, cơ sở hạ tầng nghề cá, công trình phòng thủ biển, đảo thực hiện chậm. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang bị, phương tiện của các lực lượng thực thi pháp luật cũng như sức mạnh của lực lượng vũ trang bảo vệ biển, đảo mặc dù đã được tăng cường song vẫn còn những bất cập. Tình hình tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp và đã nhiều lần nước ngoài có hành động xâm phạm chủ quyền, cản trở việc khai thác dầu khí cũng như nguồn lợi hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Trong khi đó, các thế lực phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá Đảng và Nhà nước, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế biển, v.v.
Những hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần phải giải quyết nhanh, triệt để trong thời gian tới bằng các giải pháp đồng bộ, khoa học để biển, đảo Việt Nam mãi là không gian sinh tồn, phát triển cho các thế hệ hiện tại và tương lai của dân tộc.

Đọc thêm...

坚决、坚持维护祖国独立、主权、统一和领土完整的斗争

08:59 |
QPTD - 我国人民的建国和卫国事业正面临着有利机遇及不少困难和交叉的复杂挑战。在此种情况下,每个党员干部、人民群众必须继续深入贯彻我党提倡的关于维护祖国的新思维,其中,坚决、坚持维护祖国独立、主权、统一和领土完整是基本且贯穿的指导思想。
为什么说这是我党的基本且重要观点?首先是因为,维护社会主义祖国是越南革命的两项战略任务之一。这是我国全党、全民、全军的重大事业。该大业必须经常得到重视,绝对不能漫不经心并要与建国事业紧密结合在一起。这出发于国际和国内实情,尤其是近期的错综复杂、跌宕起伏的难以预测和不确定因素及敌对势力通过多种形式对我国实施的激烈破坏行动,同时,出发于我国民族从漫长历史吸取的并成为存亡、发展规律的宝贵经验教训,即建国与卫国并行。上面所述的理由突出了该观点的重要性。况且,该观点的实施结果直接关系到我国国家、民族、制度的存亡。因此,无论在什么情况下,不管遇到怎样困难,我们也要坚决、坚持维护越南社会主义祖国。那是越南此前、当前、未来一代又一代人的神圣、崇高的政治任务、义务。
为了深入贯彻并落实好此观点,必须开展许多必要的工作。第一重要事项就是正确、充分认识观点的内涵。维护祖国独立、主权、统一和领土完整是统一、紧密结合的整体,不可忽视任何内容。其中,维护独立具有至高无上的地位。为了争取并维护独立、过上当前的自由幸福的生活、拥有当家做主的地位,我国人民付出了满是血汗和泪水的代价。生前,胡志明主席强调,没有什么比独立、自由更加珍贵,并说即使要着力把长山山脉烧掉,也要倾力争取独立和自由。那就是越南革命、越南民族的伟大领袖——胡志明鼓励全国人民进行斗争的呼吁和真理。1946年,当国家处于千钧一发的困境,赴法出席《枫丹白露会议》的临走之前,胡志明主席嘱这样咐党各位领导:以不变应万变。这里的不变就是独立,无论国家民族陷入怎样的困境,也要维护独立,那就是应万变最基本的战略原则。我们在一定程度上予以迁就,甚至妥协,以便达到革命目标,但是绝对不能影响到民族独立和自由,况且要做到有助于维护国家独立的。当前,国际形势演变错综复杂、难以预测,全球一体化、国际融入程度深远,维护国家民族独立是全党、全民、全军的最重要任务,也是决定存亡的问题。从本质上看,当前的维护独立与此前的一致,但是从性质和要求上看,竟提出了值得注意的新问题,需要采取合适而有效的措施。尤其是,当前国际关系交叉、复杂,需要避免隶属外国,尤其是政治和经济方面的隶属。因为,隶属意味着失去自主权,从某种角度上看就是失去独立。因此,必须保持清醒,避免隶属,同时也不处于孤立无助之势,况且要积极扩大国际关系,以便为大力促进维护国家健康发展、维护祖国独立、主权和领土完整做出贡献。越南是拥有主权的国家,受到国际社会的认可,那就是任何人和力量,不管他们怎么强大也不可反驳或侵犯的法理依据。我国的那一神圣主权和独立自由不是自然而成,而是在以胡志明主席为核心的越南共产党领导下,经过全国各族人民的艰苦斗争从侵略者手中夺回的。因此,当今时代和未来时代没一个越南人的崇高责任就是维护国家、民族的主权,那就是越南以成员资格与会的国际组织、论坛、会议上的发言权、受到尊重权。国家主权必须得到维护并以充分的内涵体现出来,即在所有领域、对内还是对外政策,尤其是祖国族权、领土完整等问题上。
必须做到越南全国各族人民的团结一致。这既是越南革命、新时期建国和卫国事业的要求目标,又是国家民族需要继续维护、传承的美好传统。必须坚持并加强各族人民和宗教的团结一致,旨在通过合民意、利民、为民的合适政策不断加强全国人民的大团结。尤其是,必须如保护自己眼睛的眼珠儿般的重视党内的团结,一直确保我党的廉洁、强大,为领导实施国家革新事业和建国、卫国大业的胜利做出重要的保证。与此同时,必须注重国际团结,争取世界各国对我国的支持和同情,尤其是我党和国家政府在妥善处理国际和地区突出问题的观点上。统一基于团结,确保团结才能达到共识,同时保持团结一致才能走到成功,正如胡志明主席的教导团结、团结、大团结,成功、成功、大成功。实践表明,坚持团结一致是坚持与加强民族的内在力量,以便完成革命任务,使我国在革新、融入国际、发展、走向美好未来的道路上尽快且稳健迈进。维护祖国领土完整是全党、全民、全军的政治义务和任务。在东海形势跌宕起伏并隐藏不确定因素,对我国主权、主权权、安全造成直接威胁的情况下,这项任务显得更加重要。尤其是,近期,出现了外国不顾国际法、国际惯例,尤其是《1982年联合国海洋法公约》(UNCLOS)、《东海各方行为宣言》悍然采取侵犯越南海域的行为。因此,比以往任何时候更迫切,我们必须经常提高警惕,主动、积极对侵犯我国主权、领土的行为作出斗争。越南民族从来没有侵犯任何国家的企图,更不用说侵略。但是也不允许任何人侵犯自己的领土主权。那就是我党我国和人民群众的一贯主张、原则。
坚决、坚持斗争,维护祖国的独立、主权、统一、领土完整是我党在越南整个革命进程的贯穿指导思想和基本观点。然而,当前情况下,维护祖国独立、主权、统一、领土完整正在受许多因素的支配和制约。首先是国际和地区形势的多维冲击,敌对势力的激烈破坏活动及侵犯我国主权、领土的各个不良行为。实际上,我国也正在面临如我党所做出警告的危机。实际情况指出,不是拥有的东西不可丢失,拥有的丢失的之间的界限很模糊,拥有的如果保护不了或者不会保护,很可能丢失的,甚至全部丢失,正如列宁所说的争取政权已是很难,维护政权竟是更难。维护祖国独立、主权、统一、领土完整这一问题也是这样的。况且,那就是国家、民族最高的目标和利益。因此,全党、全民、全军必须经常提高警惕,对各个敌对势力通过和平演变、促进党和国家政府、政治社会团体内部的自我演变、自我转化进行破坏我国的阴谋和行为作出坚决的斗争,同时主动对侵犯祖国的主权、统一、领土完整,尤其是海上主权的各个行为进行斗争。认识和思想方面上,必须深入意识到这是不可迁就、不是一朝一夕而是经常和长期的激烈斗争。实施过程中,必须贯彻方针:坚决、坚持斗争,坚决但是要清醒、慎重,不可心急,坚持但是一直保持主动、灵活、讲原则等要求。同时,必须把握、抓住党对合作和斗争、合作伙伴和斗争对象等问题的观点。尊重越南独立、主权,与越南建立并扩大合作、平等互利共赢的友谊关系的一方都是合作伙伴,企图破坏我国建国和卫国事业的任何一方都是我国的对象。对于处理海上问题,我党我国的坚定、一贯立场就是坚持维护主权,坚持在遵守国际法律和地区各方协议的基础上通过和平谈判妥善处理问题,不准在主权、领土争议方面上动用或威胁动用武力。
如此看来,要肯定坚决、坚持斗争,维护祖国独立、主权、统一、领土完整是我党在整个建国和卫国事业中的贯穿、正确观点。上述观点为我国全党、全民、全军在维护国家最高利益的民族独立和社会主义、祖国主权、统一、领土完整的斗争中指明了思想方向,同时,还充分、明确彰显我党我国对于该问题的一贯态度和立场。坚决、坚持斗争是统一的整体,在实施过程中不分开。坚决斗争就是不迁就、不犹豫、不妥协的斗争,但是如此还不够,而且还要与坚持、耐心斗争相结合,不许着急,因为这是长期斗争,不可一朝一夕就结束。那就是我们要贯彻观点的核心内容,以落实好新时期维护祖国的任务。

Đọc thêm...

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc

07:58 |
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong tình hình mới đang đứng trước những cơ hội thuận lợi và không ít khó khăn, phức tạp, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc của Đảng; trong đó, “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” là quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt.
Tại sao khẳng định đây là quan điểm cơ bản, quan trọng của Đảng ta? Trước hết là bởi, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Sự nghiệp cao cả đó phải thường xuyên được coi trọng, không được lơi lỏng và phải gắn chặt với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Điều đó, xuất phát từ tình hình quốc tế và trong nước, nhất là những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khó dự báo, sự chống phá quyết liệt, bằng nhiều hình thức của các thế lực thù địch đối với nước ta; đồng thời, từ bài học kinh nghiệm quý báu được đúc kết từ lịch sử và đã trở thành quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta, đó là: “dựng nước phải đi đôi với giữ nước”. Những lý do trên nói lên tầm quan trọng của quan điểm này. Hơn thế, kết quả thực hiện quan điểm đó có quan hệ trực tiếp tới sự tồn vong của chế độ, đất nước, dân tộc. Vì thế, bất luận trong hoàn cảnh nào, thuận lợi và khó khăn ra sao, chúng ta cũng phải kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là trách nhiệm chính trị, nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng của các thế hệ người Việt Nam cả trước đây, hiện nay và mai sau.
Để quán triệt sâu và thực hiện tốt quan điểm, có nhiều việc cần làm, phải làm; trước hết và quan trọng nhất là phải nhận thức đúng, đầy đủ nội hàm quan điểm. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc là một thể hoàn chỉnh, thống nhất, gắn chặt với nhau, nên không được xem nhẹ bất cứ một nội dung nào. Trong đó, bảo vệ độc lập là nguyên tắc tối thượng. Để giành và giữ được độc lập, có được cuộc sống tự do, hạnh phúc và là chủ thể đất nước như hiện nay, nhân dân ta đã phải trả một cái giá không hề rẻ bằng cả máu, mồ hôi và nước mắt của mình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; và rằng: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Đó là chân lý, lời hiệu triệu toàn dân của Người - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Và, trong thời điểm tình thế ngặt nghèo của đất nước năm 1946, trước khi lên đường dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô, Người đã căn dặn các đồng chí lãnh đạo của Đảng: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái “bất biến” ở đây chính là “độc lập”, dù tình hình khó khăn, phức tạp đến đâu cũng phải giữ cho được “độc lập”, đó là nguyên tắc chiến lược, vấn đề căn bản nhất để “ứng vạn biến”. Trong chừng mực nào đó, chúng ta có thể nhân nhượng, thậm chí thỏa hiệp, nhằm đạt được mục tiêu của cách mạng, nhưng sự nhân nhượng, thỏa hiệp đó tuyệt đối không được làm ảnh hưởng tới độc lập, tự do của dân tộc; hơn thế, còn phải góp phần vào giữ vững nền độc lập của nước nhà. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ là vấn đề sống còn, nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Xét về bản chất, giữ vững “độc lập” hiện nay không khác trước đây, nhưng về tính chất và yêu cầu thì có những điểm mới cần chú ý để có biện pháp thực hiện phù hợp. Đặc biệt, trong mối quan hệ quốc tế đan xen, phức tạp hiện nay, phải hết sức tránh bị lệ thuộc vào nước ngoài, nhất là về chính trị và kinh tế. Bởi, bị lệ thuộc tức là mất quyền tự chủ và ở mức độ nào đó cũng có nghĩa là mất độc lập. Vì thế, phải rất tỉnh táo, tránh để bị lệ thuộc, nhưng đồng thời cũng không để rơi vào thế cô lập, hơn thế còn tích cực mở rộng quan hệ, nhằm góp phần đẩy mạnh phát triển đất nước đi đôi với bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Việt Nam là quốc gia có chủ quyền, được quốc tế công nhận, đó là cơ sở pháp lý mà không một ai, không một thế lực nào, dù mạnh đến đâu có thể phản bác hoặc xâm phạm. Chủ quyền thiêng liêng ấy của nước ta không tự nhiên có được, mà nhân dân ta đã phải giành lại cùng với giành độc lập, tự do từ tay kẻ thù xâm lược qua cuộc đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế, trách nhiệm cao cả của mỗi người Việt Nam hôm nay và mai sau là phải giữ cho được chủ quyền quốc gia, dân tộc, đó là quyền có tiếng nói, quyền được tôn trọng tại các tổ chức, diễn đàn, hội nghị quốc tế,... mà Việt Nam tham gia với tư cách thành viên. Chủ quyền quốc gia phải được giữ vững và thể hiện một cách đầy đủ theo đúng hàm nghĩa của nó, tức là trên tất cả các lĩnh vực, trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, nhất là chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Phải giữ vững sự thống nhất các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Đây vừa là mục tiêu, yêu cầu của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, vừa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc cần được tiếp tục gìn giữ, phát huy. Phải giữ vững và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất toàn dân và các tôn giáo, nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng các chính sách thỏa đáng, hợp lòng dân, có lợi cho dân, vì nhân dân. Đặc biệt, phải coi trọng giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, đảm bảo cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, phải chú trọng đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước đối với nước ta, nhất là quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan tại khu vực, thế giới. Thống nhất dựa trên cơ sở đoàn kết, có giữ vững được đoàn kết mới có sự thống nhất và có đoàn kết, thống nhất thì mới thành công, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Thực tiễn cho thấy, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất là giữ vững và tăng cường nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường đổi mới, hội nhập, phát triển, hướng tới tương lai.
Bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng khi tình hình Biển Đông đang diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ khó lường đe dọa đến chủ quyền, quyền chủ quyền, an ninh vùng biển nước ta. Đặc biệt, thời gian gần đây, nước ngoài đã bất chấp luật pháp, thông lệ quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Quy định về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), ngang nhiên có những hành động xâm phạm vùng biển Việt Nam. Vì thế, hơn bao giờ hết, chúng ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh với mọi hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc. Dân tộc Việt Nam không bao giờ có ý định, chứ chưa nói tới hành động xâm phạm lãnh thổ của quốc gia nào, nhưng cũng không cho phép bất cứ ai xâm phạm lãnh thổ của mình. Đó là nguyên tắc, là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đang bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Trước hết là sự tác động nhiều chiều của tình hình thế giới, khu vực; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ đối với nước ta. Và trên thực tế, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ hiện hữu như Đảng ta đã cảnh báo. Thực tiễn đã chỉ ra, không phải cái gì “có” là không thể “mất”, ranh giới giữa “có” và “mất” rất mong manh, “có” mà không giữ được hoặc không biết giữ thì sẽ có thể “mất”, thậm chí “mất” hoàn toàn, đúng như luận điểm của V.I Lê-nin: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc cũng vậy. Hơn thế, đó là mục tiêu, lợi ích cao nhất của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu và hành động chống phá nước ta của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội và chủ động đấu tranh với các hành động xâm phạm chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, nhất là trên vùng biển của đất nước. Về nhận thức, tư tưởng, cần phải thấu suốt đây là cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng, diễn ra và kết thúc không thể “một sớm, một chiều”, mà là thường xuyên, lâu dài. Quá trình thực hiện phải quán triệt phương châm: kiên quyết, kiên trì đấu tranh; kiên quyết nhưng phải tỉnh táo, thận trọng, không nóng vội và kiên trì nhưng luôn chủ động, linh hoạt, giữ vững nguyên tắc. Đồng thời, cần nắm vững quan điểm của Đảng về hợp tác và đấu tranh, đối tác và đối tượng: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”1. Đối với việc giải quyết các vấn đề phức tạp ở Biển Đông, lập trường kiên định, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ chủ quyền, kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và các thỏa thuận giữa các bên trong khu vực, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ.
Như vậy, cần khẳng định: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” là quan điểm đúng đắn của Đảng xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm trên định hướng tư tưởng và hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc -  lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời, còn thể hiện rõ thái độ, lập trường nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh,...” là một thể thống nhất, không tách rời nhau trong quá trình thực hiện. Kiên quyết đấu tranh, tức là đấu tranh không khoan nhượng, không do dự, thỏa hiệp, nhưng như thế chưa đủ, mà còn phải gắn với kiên trì, bền bỉ đấu tranh, không được nóng vội, bởi đây là cuộc đấu tranh lâu dài, không thể kết thúc trong “ngày một, ngày hai”. Đó là nội dung cốt lõi của quan điểm mà chúng ta cần quán triệt để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đọc thêm...

越南民主和人权成就是不可否认的

23:54 |
过去时间,利用国内经济社会遇到困难以及地区局势复杂变化,政治机会主义、自我演变自我转化分子已捏造谣言,抹黑越南共产党和越南社会制度。
他们在网上发散所谓越南打压人权情况日益增加公民权利,包括民主、结社权、示威权等不得履行,而且日益被扼杀等歪曲信息。
那么,什么叫民主和人权?这些权利在越南是如何得到保障的?
众所周知,民主是一个政治制度,全部权利都归属于民,由人民直接履行或通过自己所选举的代表:权力机构和各级政府。
在形式上,民主模型包括直接民主、间接民主。民主制度的一个最突出特征是设立和维持少数服从多数原则,承认所有公民的政治自由权、性别、民族、政治社会地位平等权。其中包括个人的保留权。
实践证明,世界民主制度有诸多模型。美国民主制度的特征是两个政党轮流执政,选举中公民被分为选举人团和投票人。越南民主的特征是所有的人在权利和义务上平等,越南民主制在各级政治系统基础上建设,即国会、各级人民议会的生活制度,是祖国阵线和各社会团体的声音一向得到尊重。人民的声音和愿望通过自己的代表得到保障。
越南民主制的特征之一是民主制度由越南共产党领导和执掌。但是,越南共产党的执政作用要遵守原则。越南共产党——工人阶级的先锋队,同时也是劳动人民和越南民族的先锋队,工人阶级、劳动人民和全民族的利益的忠诚代表,以马列主义、胡志明思想为思想基础,是国家和社会的领导力量。越南共产党与人民密切相连,服务人民,受人民的监督,就自己的决定对人民负责任。党各组织和党员在宪法和法律框架内活动。(2013年宪法第四条)
19458月革命取得成功到革新开放时期,越南党和国家都特别关心基层民主。1998年,我党中央已颁发关于制定和实施基层民主机制的30号指示。该机制规定保障人民能获取有关法律、主张、政策的信息,采取机制和形式让基层人民、干部、公职得以谈论并对政府和机关单位的主张政策、专门工作任务、干部工作的发表意见,让人民讨论和决定直接关系人民生活的工作,基层人民、工人、干部、公职直接参加和通过的机制包括祖国阵线、各团体、人民清查监督委员会等。
30号指示的基础上,政府也颁发相关议定书。在关于民主的指示和议定基础上,越南国家已颁发了数百个相关法律文件,旨在保障基层民主权利。截至目前,越南民主制已经和正在得到从基层到中央严格实施。从日常产生的问题到民族独立、国家主权、领土完整等问题,人民都关心并有权参加讨论。
现在,提及民主制度和人权就要提及因特网和社交网使用权。从1997年,越南已正式连接因特网。2010年,越南因特网线已使用光缆线。截止2017年,越南因特网使用人数约达64百万,占总人口的67%,在世界因特网使用人数最多国家排行榜上位居第12位,亚洲的第6为。
此外,越南现有858个印刷报纸机关,电子报105,广播电视台66。不仅是越南人,而且旅越外国人都能获取各大新闻媒体机构的信息。越南现有75个外国在线视频进行播放,诸如CNNBBCTV5NHKDWAustralia NetworkKBSBloomberg等。20个外国新闻媒体机构已特派驻越记者,多家报纸和杂志使用外国语言并得到广泛发行。通过因特网,越南人民能获取AFPAPBBCVOAReutersKyodoEconomistFinancial Times等世界大新闻媒体机构的信息。
在每次国会会议之前,国会代表都与选民接触。接触会得到各新闻媒体机构广泛报道。
人权是物质和精神方面的需求,包括民事、政治、经济社会、文化等方面的需求,得到法律化以及国家尊重和保卫。历史上,八月革命成功后,越南民族才有人权。从1946年到2013年各部宪法均对人权作出规定。这些规定的内容完全符合国际人权法律。2013年宪法已用整整一章的篇幅,对人权、公民的权利和义务作出充分规定。其中,第14条规定:在越南社会主义共和国,有关政治、民事、经济、文化、社会的人权和公民权得到宪法和法律的公认、尊重、维护和保障;人权、公民权只能因国防、国家安全、社会秩序、社会道德、人民健康等理由在必要时依照法律规定受到限制
人民掌握权力不仅是越南社会制度的原则,而且还是发展动力。在越南社会,国家元首也有责任回答人民关心的问题。1015日,在与河内巴廷郡选民接触会上,越共中央总书记、国家主席阮富仲回答选民关于东海问题时强调:我们要坚持维护和平环境以发展国家,但领土、独立、主权等问题绝不迁就
歪曲否认民主和人权成就的原因众多,其中包括对民主和人权的认识不够。在许多西方国家,民主一般与非政府组织的反政府活动相连,其是各场众人集会,破坏公共工程,触犯个人、官职。新闻自由权也有类似内容。报道者、报纸机关的责任一般很轻。因此,用西方的民主、人权标准来评价越南民主制度和人权是政治上的错误,方法上的差错。
当然的,在社会管理过程中,越南还有些不足之处,但在原则方面,要认识到越南民主是有纪纲、有组织、有系统的民主。在越南社会,保障民主权但要确保合乎法律和维护社会稳定。民主和人权保障既是权利又是目标,因此,每个人要为在宪法和法律框架内更好地保障民主权和人权加倍努力。

Đọc thêm...

Không thể phủ nhận thành quả dân chủ và quyền con người của Việt Nam

22:53 |
QĐND - Trong thời gian qua, trước những khó khăn về kinh tế-xã hội chưa được giải quyết và những diễn biến phức tạp trong khu vực… lợi dụng tình hình này, những kẻ cơ hội chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã xuyên tạc tình hình, hòng bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội Việt Nam…
Họ viết và tán phát trên mạng rằng: "Đàn áp về nhân quyền ở Việt Nam ngày càng gia tăng"; "các quyền của người dân, trong đó có dân chủ, quyền lập hội, biểu tình… không được thực hiện, trái lại ngày càng bị bóp nghẹt...". Vậy dân chủ và quyền con người là gì? Những quyền này đã và đang được bảo đảm ở Việt Nam như thế nào?
Theo quan niệm chung, dân chủ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình bầu ra... Đó là các cơ quan quyền lực và chính quyền các cấp.
Về hình thức, hoặc mô hình dân chủ gồm có các dạng-dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp. Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của chế độ dân chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, đồng thời thừa nhận quyền tự do về chính trị và quyền bình đẳng về giới tính, về dân tộc, về vị thế chính trị-xã hội của mọi công dân. Trong đó gồm cả quyền được bảo lưu của cá nhân.
Thực tế cho thấy, chế độ dân chủ trên thế giới có nhiều mô hình. Chế độ dân chủ ở Hoa Kỳ có đặc trưng là luôn có hai đảng chính trị thay nhau lãnh đạo cầm quyền; công dân, trong các cuộc bầu cử bị chia thành hai loại “đại cử tri” và cử tri thường. Đặc trưng nền dân chủ của Việt Nam là tất cả mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; chế độ dân chủ của Việt Nam dựa trên hệ thống chính trị các cấp-đó là chế độ sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; là tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc và của các đoàn thể xã hội luôn luôn được tôn trọng. Ở đây tiếng nói, nguyện vọng của người dân được bảo đảm thông qua các đại diện của mình.
Một trong những đặc trưng của nền dân chủ ở Việt Nam là chế độ dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". (Điều 4, Hiến pháp 2013).
Ngay từ khi cách mạng thành công (tháng 8-1945) cho đến thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến dân chủ ở cấp cơ sở. Còn nhớ, sau sự kiện nông dân ở tỉnh Thái Bình tụ tập đông người đi khiếu kiện gây ách tắc giao thông (năm 1997); một số nơi, nông dân còn tấn công, đập phá trụ sở cơ quan công quyền. Sau khi khảo sát, nghiên cứu, khi ấy, Tổng Bí thư Đỗ Mười cho rằng: Tình trạng gây mất trật tự nói trên bắt nguồn từ sự vi phạm quyền dân chủ của người dân. Theo đó. Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ đạo ban hành Chỉ thị số 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở gồm: Bảo đảm để mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước…; có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị;  có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn; cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp và thông qua, gồm: Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan,…
Ngày nay, nói đến chế độ dân chủ và quyền con người (QCN) thì không thể không nói đến quyền sử dụng internet và mạng xã hội. Việt Nam chính thức nối mạng internet từ năm 1997. Từ năm 2010, đường truyền internet ở Việt Nam được chuyển từ dây cáp đồng sang cáp quang. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có 64 triệu người dùng internet, chiếm 67% dân số cả nước. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay, Việt Nam đã có 858 cơ quan báo chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí; 66 đài phát thanh, truyền hình. Hiện nay, không chỉ người dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có đầy đủ thông tin từ những hãng thông tấn báo chí lớn. Hiện ở Việt Nam có tới 75 kênh truyền hình nước ngoài “online”, trong đó có các kênh nổi tiếng, như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg... Hiện có tới 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, người dân Việt Nam có thể tiếp cận thông tin từ các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times,...
Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu đều có chương trình tiếp xúc cử tri. Những cuộc tiếp xúc cử tri được các đài phát thanh, truyền hình đăng tải rộng rãi. Nội dung các cuộc tiếp xúc cử tri ngày nay không chỉ là những vấn đề sinh kế, điều kiện sinh hoạt của người dân, tham gia vào các dự thảo luật, mà cử tri còn đặc biệt quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, các chủ trương trong chính sách đối ngoại...
QCN là các nhu cầu về vật chất và tinh thần-từ nhu cầu về dân sự, chính trị, đến kinh tế-xã hội và văn hóa được luật hóa và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ. Xét về lịch sử, QCN chỉ đến với dân tộc Việt Nam khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Các Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 2013 đã quy định về QCN. Nội dung những quy định này hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về QCN. Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương để quy định về QCN. Trong đó, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; QCN, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Kiểm soát quyền lực của nhân dân không chỉ là nguyên tắc của chế độ ở Việt Nam mà còn là động lực của sự phát triển. Trong xã hội ở Việt Nam ngày nay, nguyên thủ cũng có trách nhiệm trả lời những vấn đề người dân quan tâm. Trong buổi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình, Hà Nội sáng 15-10, trả lời ý kiến của cử tri quan tâm về vấn đề chủ quyền biển đảo ở Biển Đông, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Chúng ta phải giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng không nhân nhượng vấn đề lãnh thổ, độc lập, chủ quyền”.
Những ý kiến xuyên tạc, phủ nhận thành tựu về dân chủ và QCN có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nhận thức không đầy đủ về dân chủ và QCN… Ở nhiều quốc gia phương Tây, dân chủ thường gắn với các hoạt động chống chính phủ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)… Đó là các cuộc tụ tập đông người, phá hủy các công trình công cộng, xúc phạm cá nhân, quan chức từ cấp thấp cho đến tổng thống. Quyền tự do báo chí cũng có nội dung tương tự… Trách nhiệm của người đưa tin, của cơ quan quản lý báo chí thường rất nhẹ. Vì vậy dùng tiêu chí dân chủ, nhân quyền của phương Tây để xem xét, đánh giá chế độ dân chủ và QCN của Việt Nam là một sai lầm về chính trị và thiếu sót về phương pháp luận.
Không phủ nhận rằng trong quá trình quản lý xã hội, Việt Nam còn có những khiếm khuyết, trong đó có việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân. Ở địa phương này, địa phương khác vẫn còn có hiện tượng lợi ích của người dân chưa được tôn trọng, bảo đảm, nhất là trong vấn đề đất đai. Đây là vấn đề lớn mà các cấp ủy và chính quyền cần đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, cần nhận thức đúng, về mặt nguyên tắc, nền dân chủ của Việt Nam là một nền dân chủ có kỷ cương, có tổ chức, có hệ thống. Trong xã hội Việt Nam, bảo đảm quyền dân chủ, nhưng phải bảo đảm đúng pháp luật và giữ vững sự ổn định xã hội. Bảo đảm dân chủ và QCN vừa là quyền, vừa là mục tiêu hướng đến của chế độ… vì vậy mỗi chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền dân chủ và QCN theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Đọc thêm...

Hot (焦点)