在印度举行的东海国际研讨会呼吁各方遵守国际法

18:26 |
题为东海——当前的挑战及未来的愿景的学术研讨会于1129日在印度首都新德里国际会议中心举行。与会的印度和越南学者在三场讨论会上再次强调东海对国际贸易和航行的重要性,东海不仅关系到东南亚地区,而且还跟包括印度在内的全球利益息息相关并吸引全球的关注。东海局势直接影响印度的贸易和经济利益。
与会代表认为,中国海洋八号调查船队多个月内侵犯越南的专属经济区和大陆架一事使地区紧张局势升级,导致国际社会深感担忧。中国对2016年海牙国际常设仲裁法庭东海仲裁案的最终裁决的疏忽也对基于规则的世界秩序造成挑战,而世界秩序是海上稳定和航行自由的基础。
研讨会上,与会学者强调,1982年《联合国海洋法公约》是关于海洋的宪法。与会代表呼吁有关各方尽早通过符合国际法和国际惯例的东海行为准则COC),进而为该地区带来和平稳定。

Đọc thêm...

Hội thảo quốc tế về Biển Đông kêu gọi tuân thủ luật pháp quốc tế

18:15 |
Ngày 29/11, tại trung tâm Hội thảo quốc tế ở thủ đô New Delhi, Ấn Độ đã diễn ra hội thảo khoa học: "Biển Đông - những thách thức hiện tại và triển vọng tương lai". Qua 3 phiên thảo luận, các học giả Ấn Độ và Việt Nam tái khẳng định tầm quan trọng của Biển Đông đối với thương mại và hàng hải quốc tế, có 9 trong 10 cảng container bận rộn nhất thế giới nằm trong khu vực này và lượng hàng hóa vận chuyển qua khu vực hằng năm trị giá khoảng 5.000 tỷ USD. Do đó, Biển Đông không chỉ liên quan tới khu vực Đông Nam Á mà gắn liền với lợi ích và sự quan tâm toàn cầu, trong đó có lợi ích của Ấn Độ. Các diễn biến tại Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp tới thương mại và lợi ích kinh tế của Ấn Độ.
Theo các học giả, việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 và nhiều tàu hộ tống có vũ trang xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam xung quanh khu vực bãi Tư Chính trong nhiều tháng đã làm gia tăng căng thẳng và bất ổn trong khu vực, gây lo ngại đối với cộng đồng quốc tế. Điều này làm tổn hại hình ảnh của Trung Quốc và suy giảm lòng tin của cộng đồng quốc tế đối với nước này.
Việc Trung Quốc phớt lờ phán quyết của Tòa trọng tài thường trực năm 2016 cũng thách thức trật tự thế giới dựa trên luật lệ, vốn là nền tảng cho ổn định trên biển và tự do hàng hải.
Cũng tại hội thảo, các học giả khẳng định Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 là văn bản có tính pháp lý như hiến pháp về biển.
Các hội giả kêu gọi các quốc gia liên quan sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC) phù hợp với chuẩn mực và luật pháp quốc tế nhằm đem lại hòa bình và ổn định khu vực./.

Đọc thêm...

越南一贯奉行独立、自主的国防对外路线

07:05 |
近期,越南公布了2019年国防白皮书,其中继续肯定越南国防政策的基本观点是为和平和自卫的宗旨;不参加军事联盟,不与任何国家结盟来对抗另一个国家;不允许任何国家在本国领土设立军事基地或使用越南领土来对抗另一个国家;在国际关系中不使用武力或以武力相威胁。但是,在一些网站和博客上纷纷登载有关越南国防对外政策的歪曲信息。国内外敌对势力、反动派和政治机会主义分子以供参考和讨论形式在网络上散发含糊的文章,其中提出捏造、歪曲的信息,企图欺骗舆论并搅乱社会稳定局面。
记得前几年,自从金兰国际港口竣工并投入运行以来,国内外新闻媒体都登载文章,对越南党和 国家的正确主张给以积极评价。把金兰国际港口投入运行有助于发展经济,维护国防安全,并扩大越南与世界各国的国防关系。
但是,有些外国通讯社和一些网站和博客已利用越南国家关于把金兰国际港口投入运行的主张来造谣传谣,离间挑拨越南与各国的关系。他们故意歪曲信息,旨在服务于一些不满组织和人群的政治图谋。
越南国防白皮书已明确指出,越南主张不允许任何国家在越南设立军事基地。越南政府也肯定不把金兰港租给外国用作军事基地或后勤技术基地。但是,越南欢迎国际船舶在金兰港停留和使用后勤技术服务。这是一个正确的主张。在深广融入国际社会时期,越南愿为各国军舰和民事船舶友善来访和使用后勤技术服务打开大门。进入金兰港的外国船舶越多,越证明他们对越南持有信任,越南也信任他们。因此,越南把金兰国际港租给外国用作军事基地这一论调完全是主观武断、毫无根据的。
至于越南结盟军事来对付第三个国家这一歪曲论调幕后是什么?越南民族建国卫国历史已证明军事联盟、战斗联盟的和平性、自卫性和正义性,并强调军事联盟、战斗联盟是在一定时期捍卫祖国的方式之一。自从国家和平、统一以来,越南一贯奉行和平、自卫的国防个政策,旨在坚持维护国家独立主权和领土完整。
越南国防离不开越南党、国家独立、自主、和平、合作与发展的对外路线以及多方化、多样化国际关系,主动、积极融入国际社会的对外政策。据此,凡是尊重越南主权,同越南建立并扩大友好及平等互利合作关系者均为我们的国防合作伙伴。通过对外关系,越南与各国人民和政府相互了解,加强互信,扩大合作,合理处理分歧,旨在遏制和击退战争危机,为维护地区和世界和平、稳定环境作出贡献。落实独立、自主的国防政策,越南动用国家综合力量来增强国防力量;坚持主张不结盟军事,不与一个国家结盟以对抗另一个国家,不允许外国在越南设立军事基地或使用越南领土来对抗另一个国家。但是,越南主张加强与所有国家的国防合作,旨在提高捍卫祖国的能力。在具体条件内,越南将在互相尊重独立主权、遵守国际法基本原则、平等互利、有助于地区和国际社会的共同利益等基础上考虑发展各项国防关系。
越南革命实践已证明,局势越困难,越需要拥有正确的国防政策,坚持独立、自主路线,以自力更生为主。另外,应充分了解捍卫越南社会主义祖国的力量就是国家在经济、思想、经济、社会、文化、国防安全、对外等方面的综合力量,其中武装力量是核心,将民族力量和时代力量、军事、经济、政治和外交等相结合。在党领导下的国内力量以及全民族团结力量是决定性因素。只有坚持独立、自主的国防路线和政策,我们才能充分发挥民族力量,争取时代力量,服务于捍卫国家独立、主权、统一和领土完整,保卫社会主义国家建设事业。因此,越南需要结盟军事一说是与上述精神背道而驰的。
敌对势力提出上述论调企图破坏越南民族大团结与捍卫祖国力量;挑拨离间党和人民、党和武装力量以及越南和各国的关系;使越南在落实国防政策、捍卫祖国路线以及保卫国家海洋海岛主权斗争中偏离独立、自主路线,服务于他们的阴险图谋。

Đọc thêm...

Kiên định đường lối quốc phòng độc lập, tự chủ

06:04 |
Vừa qua, Việt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, trong đó tiếp tục khẳng định chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Sách Trắng Quốc phòng 2019 của nêu rõ, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, trên một số trang mạng, blog vẫn rộ lên thông tin xuyên tạc liên quan đến chính sách quốc phòng của Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội tung lên mạng những bài viết mập mờ theo lối “rộng đường dư luận”, cùng thông tin bịa đặt, xuyên tạc để đánh lừa dư luận và gây hoang mang trong xã hội.
Bằng thủ đoạn đưa thông tin lập lờ “đen-trắng” lẫn lộn, các thế lực thù địch kích thích trí tò mò của công chúng, làm cho người đọc không phân biệt được đúng sai, nảy sinh nghi ngờ, mất lòng tin vào Đảng và Nhà nước. Còn nhớ mấy năm trước, khi Cảng quốc tế Cam Ranh được khánh thành và đi vào hoạt động, một số hãng thông tấn nước ngoài cùng một số trang mạng, blog cá nhân đã lợi dụng chủ trương của Nhà nước ta về việc đưa Cảng quốc tế Cam Ranh vào khai thác, để tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu Việt Nam nhằm chia rẽ quan hệ của Việt Nam với các nước. Với dụng ý đó, họ cố tình xuyên tạc, bóp méo thông tin, phục vụ cho mưu đồ chính trị của một số tổ chức, một số nhóm người không có thiện cảm với Việt Nam.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam đã nêu rõ: Việt Nam chủ trương không cho bất cứ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Chính phủ Việt Nam đã khẳng định không cho nước ngoài thuê cảng Cam Ranh làm căn cứ quân sự hay căn cứ hậu cần-kỹ thuật. Tuy nhiên, Việt Nam hoan nghênh tàu, thuyền quốc tế ghé đậu và sử dụng dịch vụ hậu cần-kỹ thuật tại đây. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam sẵn sàng mở cửa đón tiếp tàu quân sự, dân sự của các nước có thiện chí và muốn sử dụng dịch vụ hậu cần-kỹ thuật ở Cảng quốc tế Cam Ranh. Tàu, thuyền các nước càng vào Cam Ranh nhiều càng chứng minh họ tín nhiệm Việt Nam và Việt Nam cũng tin tưởng họ. Do vậy, chuyện suy diễn Việt Nam cho nước ngoài thuê Cảng quốc tế Cam Ranh làm căn cứ quân sự là một suy diễn mang tính chủ quan, vô căn cứ.
Còn những ý kiến cho rằng, Việt Nam muốn liên minh quân sự, lôi kéo nhân tố quốc tế để đối phó với nước thứ ba. Câu chuyện thực chất là gì?
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh tính chất hòa bình, tự vệ và chính nghĩa của liên minh quân sự, liên minh chiến đấu, đồng thời khẳng định liên minh quân sự, liên minh chiến đấu là một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc vào thời điểm nhất định. Từ khi đất nước hòa bình, thống nhất đến nay, Việt Nam nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Quốc phòng Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Theo đó, tất cả những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng và bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực đều là đối tác hợp tác quốc phòng của Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với nhân dân và chính phủ các nước, tạo cơ sở mở rộng hợp tác, giải quyết các mâu thuẫn nhằm ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng mọi nguồn lực của đất nước; kiên trì chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác. Tuy nhiên, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác quốc phòng với mọi quốc gia để tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã minh chứng: Càng trong những tình thế khó khăn, càng đòi hỏi phải có chính sách quốc phòng đúng đắn theo đường lối độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính. Đồng thời, cần hiểu đúng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó, sức mạnh lực lượng vũ trang là nòng cốt, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp quân sự, kinh tế, chính trị với ngoại giao. Sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định. Chỉ có kiên trì thực hiện đường lối và “chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ” chúng ta mới có thể phát huy hết được sức mạnh dân tộc, tận dụng và khai thác triệt để sức mạnh của thời đại trong đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nếu ai đó cho rằng, Việt Nam cần liên minh quân sự là trái ngược với tinh thần nói trên.
Những diễn biến trong thời gian cho chúng ta thấy rõ ai là người thực tâm ủng hộ Việt Nam và ai đang toan tính thực hiện Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá Việt Nam. Có thể thấy, những luận điệu trên là nhằm chia rẽ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta; chia rẽ Đảng với nhân dân, Đảng với lực lượng vũ trang; chia rẽ quan hệ Việt Nam với các nước. Âm mưu của họ là lái Việt Nam chệch khỏi đường lối độc lập, tự chủ trong thực hiện chính sách quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cũng như trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phục vụ cho những mưu đồ nham hiểm.

Đọc thêm...

确保网络空间信息安全是每一个国家的必要工作

08:23 |
在当今时代技术爆发式发展的背景下,在网络空间分享信息是必要的需求。然而,也正因如此,网络犯罪的手段也变得越来越复杂、高端,给确保网络安全工作带来巨大的挑战。跟其他主权国家一样,越南颁行了《网络安全法》,旨在确保网络空间信息安全,维护国家安全,建设并发展国家。
越南网络空间一直以来都被反动、敌对势力及网络犯罪者利用,实施危害国家安全及社会治安秩序的行为。更危险的是宣传、煽动骚乱,破坏社会,图谋进行《颜色革命》、《街头革命》等,阴谋改变越南政治制度。此外,虚假信息、有害信息在网上泛滥,也影响国家的主权、利益和安全,同时损害国内各组织、个人的权益。据公安部统计,目前约有2500个反动网站把主机设在国外,进行宣传、破坏越南党和国家的活动。
放眼其他国家,实际上,面对要求各国重新审视网络空间管理方式和模式的显现挑战和潜在危机,各国正抓紧采取强有力的措施设置防火墙。德国通过了关于管理社交网的法律,据此,发生用户诽谤他人,制造仇恨或散布虚假信息行为的社交网将面临严厉处罚,罚金可高达5000万欧元。澳大利亚也宣布,如果不把有害内容全部删除,互联网服务供应商及社交网可能面对金额相当于一年营收额10%的罚金,其管理者可能面临3年有期徒刑。埃及打击虚假信息的法律也允许该国职能部门监视社交网上关注者超过5000人的个人账户。泰国《网络安全法》规定散布虚假信息的人可被判7年有期徒刑。菲律宾最近也出台一项法律规定,传播虚假信息的行为可被视为刑事犯罪,可被处以6个月有期徒刑及3000美元罚金。新加坡也刚通过《防止网络虚假信息和网络操纵法案》。据此,别有用心传播虚假信息,给社会利益造成严重损失的人可被判10年有期徒刑,社交网不遵守相关规定的可被罚100万新加坡元。另据报道,美国商务部1126日公布新规则,允许该国商务部长禁止美国企业与在信息、通信方面对美国国家安全存在威胁的外资企业合作。
越南《网络安全法》于今年11日生效,坚持奉行互联网服务供应商、开发商特别是跨国企业要遵守越南法律,尊重越南主权、利益与安全的原则。越南要求伙伴方在越南开业时秉承合作态度,遵守越南相关规定,在越南设立代表机构,确保用户注册实名性,积极与越方配合及时删除冒充越南党、国家领导人的网站,彻底关闭发布失实信息的账户。
生效近一年来,《网络安全法》的规定真正落到实处,为虚拟世界信息健康化做出贡献,形成社会多个领域的良好互动。这表明,越南《网络安全法》的主要目标是正确的。
《网络安全法》的实施实践证明,确保越南在信息空间的主权是正确的政策,符合世界当前发展趋势。跟其他国家一样,越南当然要管理和保护越南人民的个人信息及越南领土上的重要信息。《网络安全法》是越南开展这项工作的有效工具。
越南是一个政治、社会稳定,正迈上发展道路的国家,不过潜在的不稳定因素并非没有。建设健康、安全的网络信息环境有助于保护稳定的政治社会环境,维护国家主权,为国家可持续发展奠定基础。

Đọc thêm...

Cần thiết phải bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng

08:12 |
Trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, nhu cầu tiếp cận và chia sẻ thông tin trên không gian mạng là tất yếu. Song cũng vì thế mà các cuộc tấn công của tội phạm mạng cũng ngày càng phức tạp, tinh vi, tạo ra những thách thức không nhỏ trong công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng. Không gian mạng của Việt Nam luôn bị các thế lực phản động, thù địch, tội phạm mạng sử dụng để tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt nguy hiểm là các loại tội phạm tuyên truyền, kích động bạo loạn, chống phá xã hội, thực hiện “Cách mạng màu”, “Cách mạng đường phố”… nhằm thay đổi thế chế chính trị. Tình trạng tin giả, tin xấu độc cũng được đăng tải tràn lan trên không gian mạng, làm ảnh hưởng đến chủ quyền, lợi ích, an ninh và tổn hại đến quyền, lợi ích của các tổ chức, các cá nhân trong nước. Theo thống kê của Bộ Công an, đang có khoảng 2.500 trang mạng phản động đặt máy chủ tại nước ngoài hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Thực tế trên thế giới, trước những thách thức hiện hữu và nguy cơ tiềm ẩn đòi hỏi phải tư duy lại về mô hình và cách thức quản trị không gian mạng, các quốc gia đang ráo riết thiết lập những hàng rào bảo vệ bằng việc đưa ra những biện pháp cứng rắn. Đức đã thông qua luật về quản lý mạng xã hội, theo đó, những dịch vụ mạng xã hội nếu để xảy ra tình trạng người dùng lăng mạ, gây thù oán hay phát tán các tin tức giả mạo sẽ đối mặt với án phạt nặng có thể lên tới 50 triệu Euro. Australia tuyên bố sẽ phạt các công ty cung cấp dịch vụ mạng và các trang mạng xã hội tới 10% tổng thu nhập hàng năm, thậm chí phạt tù lên tới 3 năm đối với người điều hành nếu không loại bỏ hoàn toàn các nội dung xấu. Luật chống tin giả của Ai Cập cho phép cơ quan chức năng quyền giám sát các tài khoản cá nhân trên những mạng xã hội có trên 5.000 người theo dõi. Luật An ninh mạng của Thái Lan quy định đối tượng phát tán tin giả sẽ phải chịu 7 năm tù. Philippines mới đây cũng ban hành luật quy định hoạt động truyền bá thông tin giả mạo bị coi là tội phạm hình sự, bị phạt tới 6 tháng tù, kèm khoản tiền phạt hơn 3.000 USD. Còn Singapore, vừa thông qua Dự luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối trực tuyến. Người lan truyền tin giả với dụng ý xấu, gây tổn hại nghiêm trọng lợi ích cộng đồng có thể đối mặt với bản án 10 năm tù, các công ty mạng xã hội nếu không tuân thủ các quy định có thể bị phạt lên đến 1 triệu đô la Singapore. Trong một diễn biến liên quan mới nhất, ngày 26/11/2019, Bộ Thương mại Mỹ đã công bố đề xuất quy tắc mới, theo đó cho phép Bộ trưởng Thương mại có quyền cấm các công ty Mỹ làm ăn kinh doanh với các công ty thuộc sở hữu của nước ngoài có mối đe dọa an ninh quốc gia đối với chuỗi cung ứng thông tin và truyền thông của Mỹ.
Tại Việt Nam, Luật An ninh mạng, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019, kiên định vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Việt Nam yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật.
Sau gần một năm có hiệu lực thi hành, những quy định về bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng của Luật An ninh mạng của Việt Nam đã đi vào đời sống, góp phần làm lành mạnh thông tin trên thế giới ảo, tạo sự tương tác tốt trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Điều này chứng minh những mục tiêu chính yếu của Luật An ninh mạng của Việt Nam là đúng đắn.
Thực tế thực thi Luật An ninh mạng thời gian qua cũng chứng minh rằng bảo đảm được chủ quyền thông tin của Việt Nam là chính sách đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay trên thế giới. Như mọi quốc gia khác, Nhà nước Việt Nam đương nhiên phải quản lý và bảo vệ thông tin của người dân Việt Nam và thông tin quan trọng được tạo trên lãnh thổ Việt Nam. Luật An ninh mạng chính là công cụ pháp lý hữu hiệu để Chính phủ Việt Nam thực thi nhiệm vụ này.
Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên, cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định. Tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, an toàn trên không gian mạng sẽ góp phần tích cực bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định, bao vệ chủ quyền của đất nước, làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững.

Đọc thêm...

越南不会与任何国家结盟以对抗另一个国家

15:31 |
近期,越南刚公布了2019年国防白皮书,其中再次强调越南不会跟任何国家结盟以对抗另一个国家的一贯主张。但是,有些人还糊涂认为,越南正在调整对外关系,旨在寻找战略伙伴,建立新联盟,旨在与对自己施加压力的国家作对抗。有的人甚至还明目张胆说道,越南正在偷偷跟随一个国家来对抗另一个国家。
众所周知,在敌对势力对越南进行的和平演变战略中,对外是他们着重破坏的领域。以各种各样的招牌来造谣传谣,否认我国对外工作成就,歪曲越南党、国家的对外观点和政策以及越南和各伙伴国的关系,企图挑拨离间越南和地区与世界各国的关系,降低越南在国际舞台上的地位和威信。
敌对势力上述一举一动都是老调重弹的,其动机不外乎破坏越南党、国家和人民,与国家民族利益背道而驰,挑拨离间越南和各伙伴国,尤其是各大国和邻国的关系,破坏和平、稳定环境以及国家发展事业。
尽管仍遇到种种困难,但自从推动革新开放事业30多年来,越南在对外工作上取得了重要丰硕成就。越南与地区和世界各国的关系日趋得到扩大和深化,国家的地位和威望不断得到提高。越南共产党与世界各政党的对外关系不断朝着多方化、多样化方向扩大和增强。党的对外工作和国家外交、民间外交得到协调配合,营造许多巨大胜利,为维护和平、稳定环境以便发展国家作出贡献。敌对势力再耍什么花招也否认不了我党、国家和人民的对外成就。
越南对外观点、主张和政策是明确的。在对外关系中,在尊重各国独立自主和国际法律原则的基础上,越南一贯奉行多方化、多样化国际关系,愿成为各国的朋友的方针。越南的目标是与各国营造共同利益,即维护和平、稳定环境。越南已多次就独立自主的对外路线作出肯定。越南永不联盟一个国家来对抗另一个国家。
越南党和国家一向强调在严格尊重国际法的基础上以和平方式来解决复杂敏感问题。这一主张和观点都赢得人民和全社会的广泛共识,国际社会的高度支持。
面对国内外形势快速变化,对外工作的目标和任务已得到越共十二大明确指出:一向坚定不移在互相尊重、平等互利的基础上维护国家利益,符合国际法的原则;一贯奉行独立自主、和平、合作与发展,多方化、多样化国际关系,积极、主动融入国际社会,是世界各国的朋友和可信赖的伙伴以及国际社会负责任一员的对外,旨在维护和平、稳定环境,最大限度争取外来资源以便发展国家,提高人民生活水平;提高国家地位和威望,并为世界和平、民族独立、民主和进步作出贡献
这样可以肯定说,越南党和国家对外政策是明确的,完全符合世界共同发展趋势。越共十二大文件所提及的内容进一步肯定越南永不会与任何国家结盟以对抗另一个国家。所谓越南依靠一个国家来对抗另一个国家这一论调只不过是出于不善图谋的故意歪曲和捏造行为,肆意妄为干涉越南内政,企图搅乱复杂情况,挑起怀疑心理,破坏稳定环境与人民对党和国家的路线、主张和政策的信心。我们决不让敌对势力得逞,每个干部、党员和群众人民必须提高警惕精神,主动发现并坚决斗争,驳斥这些歪曲论调,把其排出在国家生活和国际合作关系之外。

Đọc thêm...

Kiên trì chính sách không liên minh với một nước khác để chống lại nước thứ ba

15:10 |
Vừa qua, Việt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, trong đó khẳng định không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia... Thế nhưng, đâu đó vẫn có người hồ đồ nói rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia...
Một điều chúng ta chẳng lạ là trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam, đối ngoại là lĩnh vực trọng điểm mà các thế lực thù địch, phản động nhằm vào để chống phá. Bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, tán phát những thông tin sai lệch, bịa đặt, phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây nghi kỵ quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Những động thái nói trên không có gì mới và không nhằm mục đích nào khác là tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam.
Dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được mở rộng và tăng cường với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa phương và đa dạng hóa các quan hệ. Công tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân được kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước... Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước-đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia.
Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ... bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ.
Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại được Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII là: "Bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Những gì đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII thêm một lần nữa khẳng định: Việt Nam không bao giờ liên minh với một nước khác để chống lại nước thứ ba. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Để không mắc mưu dẫn đến tiếp tay cho chúng, mọi cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân ta cần đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh, phản bác, loại bỏ những luận điệu ấy ra khỏi đời sống trong nước và quan hệ hợp tác quốc tế.

Đọc thêm...

东盟-韩国特别峰会:绘制未来30年的愿景

07:33 |
(VOV) - 在韩国港口城市釜山举行的东盟-韩国特别峰会是重大的外交活动,也是韩国新南向政策的一部分,其中东盟是重点之一。今年的会议是标志着东盟与韩国建立合作关系30周年的里程碑,也是推动双边关系迈上更高水平,绘制未来30年愿景的机会。
来自印度尼西亚、菲律宾、新加坡、马来西亚、柬埔寨、文莱、泰国、缅甸、老挝和越南等10个东盟国家的领导人和政府官员参会。本次峰会回顾双方过去30年的合作成就,并提出未来30年的合作方向。
从伙伴变成战略伙伴
韩国-东盟伙伴关系始于1989年,目前已成为战略伙伴关系。相互了解和信任让双方在许多问题上找到了共同的声音。
东盟与韩国的关系建立在长期合作的基础上,特别是2010年,双方将这一关系提升至战略伙伴。自2014年以来,双方实施了战略伙伴关系的未来愿景:建立信任,谋求幸福联合声明。上台后不久,韩国总统文在寅于2017年启动了新南向政策。实施这一政策2年来,韩国与东盟以及韩国与东盟各成员国的关系在许多领域都取得了长足的进步。
外交关系方面,文在寅成为首位访问过所有东盟十国的在任韩国总统。经贸领域,目前,韩国继续是东盟的第五大贸易伙伴和直接投资来源地。与30年前相比,双边贸易额增加了20倍。双方在文化、音乐、饮食等方面的共同点为促进这一关系快速发展做出贡献。
同时,东盟国家也欢迎韩国的新南向政策,使韩国成为东盟至关重要的伙伴之一。韩国参加了东盟加三、东亚峰会(EAS)和东盟地区论坛(ARF)等由东盟建立和主导的大多数机制。双方在国际问题上互相支持,在国际和地区论坛上密切合作。东盟和韩国也强调其在原则问题上的立场,即通过和平方式解决争端,遵守国际法,尊重和维护亚太地区的航行和飞越自由。
建设东盟-韩国共同发展的区域
在世界面临许多问题,其中中美贸易战还未结束的背景下,韩国需要寻找新的伙伴来减少对传统伙伴的依赖,以扩大其影响力范围,随着东盟地位和作用的不断增强,东盟成为了韩国可靠的伙伴。
目前,东盟正在努力实施《2025年东盟愿景》。2020年,东盟的工作重点是团结,促进区域对接,提高对第四次工业革命的适应和把握机会能力,促进文化和民间交流,东盟一贯支持朝鲜半岛完全无核化,呼吁各方保持对话势头,充分落实已达成的协议,面向维护朝鲜半岛长期、可持续和平的目标。因此,国际和区域安全是东盟与韩国关系中的重要内容,所有国家都强调必须维护国际和地区的和平、安全、稳定与合作。
在过去30年良好合作的基础上,本次东盟-韩国特别峰会是一个新的里程碑,为东盟-韩国未来30年的关系设定了愿景。同时,这也将激励东盟国家和韩国政府、人民、企业实现东盟-韩国共同繁荣、和平发展的区域目标。

Đọc thêm...

Thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc: Tầm nhìn cho 30 năm tiếp theo

07:22 |
(VOV5) - Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Hàn Quốc, diễn ra tại thành phố cảng Busan - Hàn Quốc, là sự kiện ngoại giao lớn và là một phần của “Chính sách hướng Nam mới” của Hàn Quốc, trong đó ASEAN là một trọng tâm. Hội nghị năm nay đánh dấu chặng đường hợp tác tròn 30 năm giữa ASEAN và Hàn Quốc, là dịp để đưa quan hệ hai bên lên một cấp độ cao hơn, xây dựng tầm nhìn cho 30 năm tới.
Sự kiện quy tụ các nhà lãnh đạo và quan chức chính phủ của 10 quốc gia ASEAN gồm Indonesia, Philippines, Singapore, Malaysia, Campuchia, Brunei, Thái Lan, Myanmar, Lào và Việt Nam. Hội nghị thượng đỉnh lần này đánh giá lại những thành tựu hợp tác đạt được giữa hai bên trong 30 năm qua và đưa ra phương hướng hợp tác trong 30 năm tới.
Từ đối tác trở thành đối tác chiến lược
Quan hệ đối tác Hàn Quốc- ASEAN bắt đầu từ năm 1989 và hiện nay trở thành quan hệ đối tác chiến lược. Sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau đã giúp hai bên tìm được tiếng nói chung trong nhiều vấn đề.
Quan hệ ASEAN-Hàn Quốc được xây dựng trên nền tảng hợp tác lâu dài, đặc biệt kể từ năm 2010, khi hai bên nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược. Từ năm 2014, hai bên đã triển khai Tuyên bố chung “Tầm nhìn tương lai của Quan hệ Đối tác Chiến lược: Xây dựng niềm tin, Tạo dựng hạnh phúc”. “Chính sách hướng Nam mới” được Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đưa ra năm 2017 ngay sau khi lên nắm quyền. Trong 2 năm thực hiện chính sách này, quan hệ giữa Hàn Quốc và ASEAN nói chung cũng như giữa Hàn Quốc và từng nước thành viên ASEAN nói riêng, đã có những bước tiến mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực. Về quan hệ ngoại giao, ông Moon Jae-In đã trở thành Tổng thống Hàn Quốc đầu tiên thăm tất cả 10 quốc gia ASEAN trong thời gian đương nhiệm. Trong lĩnh vực kinh tế-thương mại, hiện Hàn Quốc tiếp tục là đối tác thương mại và nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ năm của ASEAN. Trao đổi thương mại đã tăng gấp khoảng 20 lần so với 30 năm trước. Sự tương đồng, kết nối từ văn hóa, âm nhạc đến ẩm thực.. đang góp phần đưa quan hệ hai bên phát triển nhanh chóng.
Trong khi đó, các nước ASEAN cũng đón nhận “Chính sách hướng Nam mới” của Hàn Quốc tích cực, khiến Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác gần gũi và quan trọng hàng đầu của ASEAN. Hàn Quốc tham gia hầu hết các cơ chế do ASEAN thành lập và dẫn dắt như Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), ASEAN+3. Hai bên cũng có những  bước đi ủng hộ lẫn nhau trong các vấn đề quốc tế, hợp tác chặt chẽ trong các vấn đề khu vực và toàn cầu, như phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu, không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. ASEAN và Hàn Quốc chia sẻ lập trường về các vấn đề mang tính nguyên tắc như giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng và bảo vệ tự do hàng hải và hàng không trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hiện thực hóa “một cộng đồng ASEAN-Hàn Quốc cùng phát triển
Trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, trong đó chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn chưa chấm dứt, Hàn Quốc cần có các đối tác mới để giảm sự phục thuộc vào các đối tác truyền thống, giúp tăng cường ảnh hưởng tại một khu vực rộng lớn và ASEAN, với vị thế và vai trò ngày càng tăng, nổi lên trở thành một đối tác đáng tin cậy.
Hiện nay, ASEAN đang nỗ lực triển khai thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2025. Năm 2020, trọng tâm của ASEAN là đoàn kết, thúc đẩy liên kết và kết nối khu vực, nâng cao khả năng thích ứng và tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân, trong đó tăng cường liên kết kinh tế nội khối, nâng tầm quan hệ giữa ASEAN và các nước đối tác, trong đó có Hàn Quốc. Lập trường nhất quán của ASEAN là ủng hộ phi hạt nhân hóa hoàn toàn bán đảo Triều Tiên, kêu gọi các bên duy trì đà đối thoại, thực hiện đầy đủ các thỏa thuận đã đạt được, hướng tới mục tiêu duy trì hòa bình lâu dài, bền vững trên bán đảo Triều Tiên. Vì thế, an ninh khu vực và quốc tế là một nội dung quan trọng trong quan hệ ASEAN-Hàn Quốc, trong đó các nước đều nhấn mạnh cần duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác của khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở hợp tác tốt đẹp 30 năm qua, Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hàn Quốc lần này là dấu mốc mới, định hướng tầm nhìn cho quan hệ ASEAN-Hàn Quốc 30 năm tiếp theo. Đồng thời, đây là dịp để khuyến khích và truyền cảm hứng tới người dân, doanh nghiệp, chính phủ các nước ASEAN, Hàn Quốc, có thêm động lực thực hiện mục tiêu “một cộng đồng ASEAN-Hàn Quốc cùng phát triển, thịnh vượng và hòa bình cho người dân”.

Đọc thêm...

越南公布国防白皮书 坚持和平解决所有争议

06:30 |
越南国防部1125公布2019年国防白皮书,强调越方坚持奉行和平与自卫的国防政策;坚决在国际法基础上透过和平措施解决与他国的所有争议;另外,主张推动国防发展,以打赢所有侵略战争。
越南国防部副部长阮志咏(Nguyen Chi Vinh)等官员今天在河内发布2019年国防白皮书,并说明越南国防发展成就、政策与未来大方向。这是越南隔10年再度公布国防白皮书,包括越文版和英文版2种版本,另有国防图片集。
越南2019年国防白皮书共有世界战略背景与国防政策、建立与推广全民国防以及简介越南人民军历史、结构与发展大方向共3个部分。
根据白皮书内容,越南近9年来国防预算占国内生产毛额(GDP)比重介于2.23%2.88%间,其中2010年比重最低,2012年比重最高,去年比重达2.36%;越南确保「国防预算符合国家经济社会发展情况,满足提升国防能力以维护祖国的要求,但不会军备竞赛,不会成为国家经济的负担」。
白皮书指出,世界与地区局势复杂,为越南国防安全带来很大影响,越方坚持奉行和平与自卫的国防政策,坚决在国际法基础上透过和平措施解决与其他各国的所有争议和分歧,为地区和世界和平、稳定与繁荣发展做出贡献。
越南并奉行「四不」的国防政策,包括不加入军事联盟、不会与他国搞军事结盟对抗第三国、不允许外国在越南境内建立军事基地或使用越南领土来对抗第三国以及在国际关系中不使用武力或以武力相威胁。
此外,越南将继续利用各种必要资源来建立与推广全民国防,推动国防发展,提升国防实力,能够维护越南独立、主权、统一、领土完整、国家和民族利益以及社会主义体制,能够打赢所有侵略行为与战争。
阮志咏在会中答覆记者提问有关美国和中国间战略竞争时表示,大国间合作与竞争是必然的趋势,不是现在才出现,而是早已存在,越方希望大国间竞争应遵守国际法,确保区域和平与安全,不要造成大国和小国之间的不平等,勿损及越南利益。
阮志咏说,越南尊重各国间合作与竞争,但将战斗以维护自己的权益。越南于2020年担任东协轮值主席国,越方无意领导东协,而是将主动且积极参加(各项事务),为实现(区域)和平、安全与合作目标做出贡献。

Đọc thêm...

Tính chất cơ bản của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ

04:24 |
Chiều 25/11, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức lễ công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và ông Nguyễn Minh Vũ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đồng chủ trì lễ công bố.
Tiếp sau Sách trắng Quốc phòng năm 2009, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng năm 2019 nhằm tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn tính chất cơ bản của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 được bố cục thành 3 phần: Bối cảnh chiến lược và chính sách quốc phòng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và quân đội nhân dân và dân quân tự vệ.
Sách trắng Quốc phòng 2019 thể hiện chủ trương minh bạch hóa về chính sách quốc phòng của Việt Nam để tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin giữa Quân đội và nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân các nước trên thế giới; tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hợp tác, hội nhập quốc tế về quốc phòng giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế, giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, vì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển.
Trước tình hình an ninh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tác động to lớn đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam, Sách trắng Quốc phòng thể hiện quyết tâm duy trì chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ của Đảng, Nhà nước Việt Nam; kiên quyết, kiên trì giải quyết các tranh chấp, bất đồng với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Năm 2020, Bộ Quốc phòng sẽ chủ trì tổ chức hơn 20 hội nghị và hoạt động quân sự - quốc phòng của ASEAN. Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của đối ngoại quốc phòng giai đoạn 2018 - 2020. Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng đã hoàn thành và chính thức đưa vào vận hành website Hội nghị quốc phòng - quân sự ASEAN năm 2020 tại địa chỉ: http://admm.vn hoặc http://admm.org.vn với 2 ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.
Đây là kênh thông tin chính thức của Bộ Quốc phòng Việt Nam về các hoạt động, hội nghị quốc phòng - quân sự trong năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2020; đồng thời cũng là địa chỉ để đại biểu các nước tham dự hội nghị đăng k‎ý đại biểu, trao đổi thông tin phục vụ các hội nghị quốc phòng - quân sự ASEAN 2020.

Đọc thêm...

越韩关系迅猛发展

04:30 |
(VOV) - 越南政府总理阮春福正对韩国进行正式访问,并出席在这里举行的东盟-韩国建交30周年纪念高官会。在越韩关系发展势头良好的背景下,阮春福此行有助于推动越韩友好合作关系登上新的发展台阶。
阮春福此次对韩国进行的正式访问是时隔七年越南政府总理再次访韩,对在新形势下加强两国合作关系具有重要意义尤其是在越南准备担任2020年东盟轮值主席国和2020-2021年任期联合国安理会非常任理事国的背景下。
越韩关系取得了多项突破性成果
越韩两国于19921222日正式建立外交关系。近三十年来,两国关系快速发展,2002年建立《21世纪全面伙伴》关系,2009年建立《战略合作伙伴》关系。过去期间,越韩关系在政治、投资、贸易和旅游等多个领域积极发展。越南把韩国作为多个领域的头等重要伙伴,而韩国也把越南视为韩国新南向政策的重要伙伴。两国各级别代表团尤其是高层代表团的经常性互访表明两国政治互信日益得到加强。
经济合作是越韩双边总体关系的主要支柱。在外国对越投资排行榜上,韩国一向位居前列,因为韩国大型集团都对越南投资,是越南最大的外国投资来源地,是越南官方开发援助的第2大来源地,是贸易与旅游领域的第3大伙伴。越南也是韩国的第四大贸易伙伴,今年双边贸易额可望达到670亿美元(占东盟与韩国贸易总额的百分之40)。两国提出的目标是到2022年双边贸易额达到1000亿美元。两国在国防、安全、文化、教育、体育和旅游等领域的合作正蓬勃发展。特别是越韩两国民间交流成为双边关系的重要支柱。两国建交的三十年前很难想象今日两国人民关系是多么亲密,两国年均有400万人次经常往来,每个月有1000多趟班机穿梭在两国之间。20万两国公民在对方国家生活、学习和工作,其中包括65千个越韩家庭。越南国家足球队在韩国主教练朴恒徐带领下取得的成功给两国人民带来了巨大鼓舞,有助于推动越韩紧密关系发展。在两国高层领导人最近举行的会晤中,双方都强调越韩关系正处于兄弟一家亲的最美好状态。
面向未来的关系
目前,韩国是最具资金、科技等发展潜力的发达国家,深广融入全球价值链的韩国正需要开拓年轻和广阔的新市场,以保障国家继续发展。与此同时,越南是正进行革新事业,活跃和主动融入国际的国家。越南是韩国投资者的理想目的地,越南人口正处于黄金时期(近1亿人,其中百分之7015岁至64岁的适龄劳动者),人均收入达近2800美元,获得国际最权威信贷评委会给予积极评估。在世界正快速、复杂演变的情况下,越韩两国要继续分享信息和经验,加强在国际和地区多边论坛上的交流与合作,以良好解决全球性挑战,基于国际法和联合国宪章基本原则保障地区乃至世界的和平、稳定、安全和航行自由。在这一总体画卷中,阮春福总理此次韩国之行是一次重要访问,为把越韩战略合作伙伴关系提升至新的高度作出贡献。

Đọc thêm...

Hot (焦点)