东盟与新冠肺炎疫情防控阻击战

08:42 |

2019年底新冠肺炎开始出现,如今,新冠肺炎疫情已在210个国家和地区蔓延,全球确诊病例210万例以上,死亡人数超过14.3万人。全球多地疫情形势复杂严峻,对越南以及东盟其它地区和全球经济社会活动产生负面影响。
疫情不仅造成巨大的人员损失,还对东盟各国经济社会方方面面以及东盟内部和东盟与各伙伴的交流合作产生严重影响。
越南外交部副部长、2020年东盟国家委员会秘书长、东盟高官会越方代表团团长阮国勇表示,越南已做好2020年东盟轮值主席年框架下各项活动的准备工作。疫情爆发并迅速扩散蔓延使各国要把疫情防控工作放在优先地位,使得2020年东盟工作计划和东盟共同体建设活动受到了一定的影响。据东盟秘书处的统计,东盟的200项活动因新冠肺炎疫情而被迫延期或取消。
在此背景下,越南从一开始就确定要加倍努力并通过多种形式维持东盟的各活动,努力确保各项计划的实施进度和东盟所预期的成果。阮国勇表示,新冠肺炎疫情充分说明越南为2020年东盟轮值主席年所提出的主题“齐心协力与主动适应”十分确切。
越南前期以东盟主席国身份所开展的各项活动充分彰显了这一主题的精神。其一,越南已迅速决定对东盟活动重点作出适当的调整,越南与东盟各国配合将精力集中于疫情防控合作上,并将其视为当前东盟的优先事项。
其二,越南已主动提倡并协调东盟有关疫情防控工作的具体活动,包括在世界卫生组织公布新冠肺炎疫情为“全球大流行病”之前于214日发表《关于共同应对新冠肺炎疫情的东盟主席声明》,举行东盟协调委员会各场会议[1],提倡成立并召开东盟协调理事会有关应对突发公共卫生事件的副部长级跨部门工作组会议,并以视频形式召开各会议。
2020414日举行的东盟领导人特别会议和东盟与中日韩(东盟加三)抗击新冠肺炎疫情领导人特别会议是东盟历史上首次以视频形式召开的领导人会议。这些努力体现了2020年东盟轮值主席国越南的积极、主动和负责任的精神。
其三,越南以东盟主席国身份努力推动与各国和国际组织在疫情防控工作中的国际合作。越南配合组织和出席东盟与中国、欧盟、美国,世界卫生组织、东盟与中日韩等的多场重要会议,就早日控制疫情进行合作等进行讨论。
在于2020414日举行的东盟领导人特别会议和东盟与中日韩抗击新冠肺炎疫情领导人特别会议上,各国领导人共同强调,团结协作是东盟战胜新冠肺炎疫情的力量,并共同提出旨在控制和减少疫情对经济社会产生的影响同时确保地区长期稳步活跃发展的具体合作措施。
阮国勇强调,各场会议是东盟和东盟与中日韩最高领导人关于加强各国在新冠肺炎疫情防控工作中的协调配合和具体合作所作出的政治承诺。
此外,这是各领导人对人民和企业的强有力承诺,意味着各国人民不管身在何处均可获得关心、健康和生活照顾,其正当权益获得保障并获得平等对待;各企业尤其是中小企业将得到支持,为其维持活动并在疫情结束后继续发展创造便利条件。
阮国勇表示,各会议还传递出东盟各国和东盟与中日韩支持多边主义、自由贸易和投资以及确保供应链连续性的精神。
疫情爆发之后,各国必须采取强有力措施限制人员往来、或进行隔离,甚至封锁部分疫区,不同程度地关闭边境,取消航班和部分贸易交往。这些措施对人民的经济活动和生活产生较大的影响。
在此背景下,东盟各国均同意按照防疫进度和路线图适当逐步取消各项限制措施,同时,各国均推出旨在保障民生和支持企业度过难关地各项扶持措施。
阮国勇就疫情得到基本控制之后疏通贸易、投资渠道,恢复经济发展和保障民生的各项措施时表示各国将一致同意确保供应链的连续性以及贸易和服务尤其是必需品、医疗设备等的流动通畅,促进区内贸易和投资,加速正在谈判的经济合作协议,充分利用和发挥现有合作机制的作用。阮国勇还表示,东盟各国领导人要制定疫情结束后的总体复苏计划。这是一项十分重要的任务,越南和各国正着手制定该计划。
“齐心协力和主动适应”这一主题正是2020年东盟主席国越南的一次测试。如何主动适应如此严峻的疫情形势?同世界其他地区相比,东盟已主动齐心协力、团结协作抗击疫情,有的应对疫情措施初步带来了良好成效。然而,适应和控制新冠肺炎疫情仍是摆在东盟面前的一大挑战,需要东盟继续发扬团结协作精神,同时也要迅速适应地区、世界和疫情的快速变化。

Đọc thêm...

Các nước ASEAN và cuộc chiến chống đại dịch COVID-19

08:31 |

Bắt đầu từ cuối năm 2019, đến nay, đại dịch COVID-19 đã lan ra tại 210 quốc gia và vùng lãnh thổ, với gần 5 triệu người mắc, trong đó có 324.446 người tử vong trên toàn cầu. Dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều nơi trên thế giới; tác động tiêu cực đối với các hoạt động kinh tế-xã hội toàn cầu, khu vực ASEAN và Việt Nam.
Không chỉ gây thiệt hại lớn về người, đại dịch còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của các nước ASEAN và các hoạt động hợp tác, giao lưu trong nội khối ASEAN cũng như giữa ASEAN và các đối tác.
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia ASEAN 2020, Trưởng SOM ASEAN của Việt Nam cho biết Việt Nam đã chuẩn bị kỹ lưỡng và sẵn sàng tổ chức các hoạt động hội nghị trong khuôn khổ Năm Chủ tịch ASEAN 2020 cùng với các ưu tiên và các kết quả dự kiến.
Sự bùng phát và lây lan của dịch COVID-19 đã buộc các nước phải dành ưu tiên hàng đầu cho ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh. Điều này cũng đã có ảnh hưởng nhất định đến kế hoạch công tác cả năm 2020 cũng như các hoạt động xây dựng Cộng đồng của ASEAN.
Theo thống kê của Ban thư ký ASEAN, hơn 200 hoạt động của ASEAN đã bị hoãn lại hoặc bị hủy vì COVID-19.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam xác định rõ cần nỗ lực và bằng nhiều hình khác nhau để duy trì được các hoạt động của ASEAN, cố gắng bảo đảm tiến độ triển khai kế hoạch, các kết quả mà ASEAN dự kiến trong năm.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng, đại dịch COVID-19 đã cho thấy chủ đề “Gắn kết và Chủ động Thích ứng” mà Việt Nam đã đề ra cho Năm Chủ tịch ASEAN 2020 là hoàn toàn xác đáng.
Những nỗ lực Việt Nam đã và đang triển khai trong vai trò Chủ tịch ASEAN thời gian qua đã thể hiện rõ tinh thần của chủ đề này. Thứ nhất, Việt Nam nhanh chóng xác định cần chuyển trọng tâm hoạt động trong ASEAN; theo đó, Việt Nam phối hợp với các nước ASEAN tập trung vào hợp tác ứng phó dịch bệnh, coi đây là ưu tiên hàng đầu của ASEAN trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, Việt Nam đã chủ động đề xuất, điều phối các hoạt động cụ thể của ASEAN hướng đến việc chống dịch bệnh như ra Tuyên bố Chủ tịch về ứng phó của ASEAN với dịch bệnh COVID-19 vào ngày 14/2 trước khi Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố COVID-19 là đại dịch, tổ chức các cuộc họp của Hội đồng điều phối ASEAN, đề xuất thành lập và tổ chức họp Nhóm Công tác liên ngành (cấp Thứ trưởng) của Hội đồng Điều phối ASEAN về ứng phó với các tình huống y tế công cộng khẩn cấp và tổ chức các cuộc họp dưới hình thức trực tuyến.
Hai Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN và ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3) về ứng phó với dịch bệnh COVID-19 diễn ra vào ngày 1 4/4/2020 là các hội nghị cấp cao được tổ chức bằng hình thức trực tuyến lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN.
Nỗ lực này thể hiện rõ vai trò tích cực, chủ động và trách nhiệm của Việt Nam - nước Chủ tịch ASEAN 2020. Thứ ba, trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các quốc gia và tổ chức quốc tế trong phòng, chống dịch.
Việt Nam phối hợp tổ chức và tham dự nhiều cuộc họp quan trọng giữa ASEAN với các đối tác như Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, ASEAN+3, Tổ chức Y tế Thế giới…để trao đổi về hợp tác, sớm kiểm soát, khống chế, đẩy lùi dịch bệnh.
Tại các hội nghị Cấp cao đặc biệt trực tuyến ASEAN và ASEAN+3 về ứng phó với dịch bệnh COVID-19 ngày 14/4/2020, các nhà lãnh đạo khẳng định đoàn kết và hợp tác chính là sức mạnh giúp ASEAN chiến thắng đại dịch COVID-19, cùng nhau đề ra các biện pháp hợp tác cụ thể nhằm kiểm soát, ngăn chặn, giảm thiểu các tác động về kinh tế-xã hội của dịch bệnh, đồng thời bảo đảm sự phát triển năng động, bền vững của khu vực về dài hạn.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng nhấn mạnh các Hội nghị này thể hiện cam kết chính trị ở cấp cao nhất của ASEAN và cũng như của ASEAN với Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản về tăng cường phối hợp và hợp tác cụ thể giữa các nước trong ứng phó với đại dịch COVID-19.
Mặt khác, đây là một thông điệp mạnh mẽ của các Nhà Lãnh đạo gửi đến người dân và doanh nghiệp rằng, người dân các nước nhận được sự quan tâm, chăm sóc về sức khỏe, cuộc sống và được bảo hộ quyền lợi chính đáng, được đối xử bình đẳng cho dù họ ở bất kỳ đâu; các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được hỗ trợ, tạo điều kiện để duy trì hoạt động và tiếp tục phát triển hậu COVID-19.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng, các Hội nghị cũng chuyển tải thông điệp của các nước ASEAN và ASEAN +3 ủng hộ chủ nghĩa đa phương, tự do thương mại, đầu tư và đảm bảo tính liên tục của chuỗi cung ứng.
Khi dịch bệnh bùng nổ, các nước buộc phải áp dụng nhiều biện pháp rất mạnh, hạn chế việc đi lại của người dân, cách ly, thậm chí là phong tỏa một số địa điểm, đóng cửa biên giới ở các mức độ khác nhau, hủy bỏ các chuyến bay và các giao thương nhất định.
Các biện pháp này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế cũng như sinh hoạt của người dân.
Trong bối cảnh đó, các nước ASEAN đều nhất trí rằng sẽ triển khai từng bước và sớm nhất để có thể gỡ bỏ dần các biện pháp này một cách phù hợp theo tiến độ của lộ trình chống dịch.
Đồng thời, các nước đều áp dụng những gói cứu trợ đảm bảo cuộc sống cho người dân, cũng như hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn này.
Chia sẻ về những biện pháp khơi thông dòng chảy thương mại, đầu tư, khôi phục kinh tế cũng như đảm bảo an sinh xã hội sau khi đại dịch COVID-19 cơ bản được khống chế, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng cho biết, các nước đều nhất trí cần phải duy trì một chuỗi cung ứng liền mạch, bảo đảm lưu thông hàng hóa, dịch vụ, nhất là hàng hóa thiết yếu, trang thiết bị y tế, đẩy mạnh thương mại, đầu tư nội khối, thúc đẩy các thỏa thuận hợp tác kinh tế đang trong quá trình đàm phán, tận dụng và phát huy vai trò của các cơ chế hiện có…
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng cũng chia sẻ thông tin rằng, các nhà lãnh đạo ASEAN xác định cần xây dựng một kế hoạch phục hồi tổng thể sau dịch bệnh. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và Việt Nam đang cùng với các nước xây dựng kế hoạch này.
Chính chủ đề “Gắn kết và Chủ động Thích ứng” đã làm phép thử cho Năm Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam. Làm thế nào để chủ động thích ứng trong bối cảnh dịch bệnh chưa từng có? So với các khu vực khác trên thế giới, ASEAN đã chủ động gắn kết với nhau để phòng chống dịch bệnh và bước đầu đã có những biện pháp ứng phó mang lại hiệu quả.
Tuy nhiên, thích ứng và kiềm chế đại dịch COVID-19 vẫn là một thách thức lớn, đòi hỏi ASEAN phải tiếp tục phát huy tinh thần gắn kết, đoàn kết đồng thời cũng phải có cơ chế thích ứng nhanh với những biến đổi liên tục của tình hình khu vực, thế giới và dịch bệnh./.

Đọc thêm...

对敌对势力利用对党十三大文件的意见建议的破坏手段保持警惕

01:14 |

广泛征求党内各级组织及人民各界对党大会召开之前的文件起草的意见建议既是原则性问题,又是发挥党内民主原则的传统,同时体现“党与人民”、“理论与丰富、生动实践”的有机结合。然而,一些敌对势力却利用该主张加以破坏。他们利用便于众多人交流的信息渠道——社交网络恶意打击党文件,企图让党员、干部及人民对党和党文件的价值丧失信心。具体内容表现在以下几个方面:
第一,集中破坏党十三大路线、观点。他们认为这次大会文件也是此前各届大会文件的抄写、改写,其内容对国家发展毫无价值,反而是约束我国民族前进的因素。因此,十三大文件一如既往提倡浮艳、教条、保守的问题,一厢情愿地抱持马列主义,只是维持党的权力而已。他们以“公开信”、“建议函”、“谈论越共十三大”等形式建议重新使用此前的党名、国号,因为这样将会“符合民心”并“凝聚全国各族人民的团结”、振兴越南、结成巨大力量超越一切挑战、抓住时机让国家向前迈进。我党我国严惩犯错的党员、干部,他们歪曲成为“内部勾心斗角”、“个人报仇”等不良行为。从此,煽动不满分子编写文章在社交网络上频繁发表,引发社会舆论要求越南要“全面改变整体构架”,即取消“共产党的专制独裁制度”,奉行“多元化、多党制”、“民主社会制度”等,勿期望十三大路线。
实践证明,从成立以来,我党经历了十二届全国代表大会,其中包括共产党各组织的合并会议(193023日)。虽然每届大会在不同的历史背景下召开,但是各届党大会文件都包含有关我国民族、民主革命及社会主义革命方面的巨大内容价值和意义,符合于人民的愿望,党心民意一致,凝聚无敌的力量战胜来犯之敌并在建国和卫国事业上强大起来。1930年的纲领是掀起二十世纪三四十年代的革命高潮及1945年八月革命取得胜利的根源。同时为我党提出抗法战争中的“全民、全面、长期、自力更生”抗战方针。19512月召开的第二届党大会上,我党确定下决心领导我国人民在抗法战争中取胜并成功建设越南北部的社会主义。在第三届党大会(19609月)上,我党主张同时实施两项战略性任务:在南方进行抗美救国战争,在北方进行社会主义革命,进而统一祖国。国家统一之后,从越共四大至十二大会议上,我党制定并进行补充、完善越南走上社会主义道路的计划。尤其是,在国家发展所提出的新要求背景下,为了克服旧制度缺陷所引起的战后经济社会危机,我党对社会主义的理论思维进行改革并逐步形成“国家革新开放”道路。越共六大(198612月)深入分析国情,从“针对事实、正确评估事实、讲清事实”等精神出发,我党制定国家全面革新道路,为民族的发展劈开新时期。六大之后,在各届大会,尤其是在七大(19916月)和十一大(20111月)会议上,我党已经完善并将革新开放道路具体化,其核心内容体现在社会主义过渡期的国家建设纲领(1991年纲领及2011年补充、修订的纲领)。在第十二届大会上,我党提倡主张:加强建设纯洁、强大的党,发挥全民族力量和发扬社会主义民主,全面、同步推进革新事业,牢牢捍卫祖国,维护和平、稳定环境,力争早日将越南基本建设成现代化的工业国家。
深入贯彻各届大会的观点,发挥国内和国际的实践经验,我党领导革新开放、建设并捍卫社会主义祖国的事业取得越来越多的胜利。因此,我国越过苏联和东欧的社会主义体系崩溃及敌人的封锁、包围、禁运等挑战,继续在社会主义道路上稳步前进。实行革新开放三十多年来,越南从低水平的贫穷国家地位发展成为发展中国家,文化、社会发达,人民的生活方方面面得到改善,政治、社会稳定,国防、安全和独立、主权得到维护,国家地位逐渐提升等等。尤其是,在COVID-19疫情的严重影响背景下,世界上许多国家在应对疫情时处于被动、不知所措状态,导致感染率和死亡率增高,面临经济萎缩危机,此时,我党我国就在疫情发生于中国湖北武汉的头一阶段主动采取许多激烈的防控措施。同时,激发全民团结精神,高度发挥医疗卫生、军队、公安各个力量的重要力量,极为有效地实施经济发展和疫情防控“双重”任务。因此,越南在疫情防控方面被国际社会评为世界疫情防控最好的国家,是当前经济增长前景最乐观的国家。
第二,利用反腐败破坏党的十三大文件。腐败本来是与阶级形成相连的社会现象,任何国家都存在这种现象。这些年来,在越南的腐败问题也显得极为突出,我党我国已经大力采取许多反腐败的行之有效措施。要肯定的是,不是到现在我党才提到反腐败斗争,对外问题,我党很早以前就认识并做出警报。回顾革新开放后的历届大会,党文件经常涉及到蜕化、腐败危机防控问题并对此下了高度防控决心。就在七大任期中期阶段,我党已经确定:贪污腐败、社会弊端以及经济发展滞后、偏离社会主义方向、敌对势力的“和平演变”阴谋和手段,是国家和制度的四个危机。八大会议上,反腐败任务受到更多的关注(第二次六中全会决议是具体的证实)。九大、十大,尤其是十一大四中全会决议对反腐败任务确定高度的政治决心。尤其是,十二大会议上,该任务通过各个机制得到强烈的实施推进,即“使之不可贪污的防范机制”、“使之不敢贪污的制裁机制”、“使之不需贪污的保障机制”等。在总书记同志的直接指导下,该工作有力落实,确保共鸣、正确、及时、有效等要求。从任期早期以来,各级党委和检查委员会对1111个党组织、18265名各级委员和54573名党员进行纪律处分。其中,中央执委会、政治局、书记处对8个党组织、45名党员进行纪律处分,中央检查委员会对111名党员进行纪律处分,其中,中央直管干部92名,包括政治局委员2名,中央委员、中央原委员21名,公安和军队军官38名等等。因此,有助于巩固党员、干部、人民对党和国家政府的“无禁区、无例外”反腐败工作中的信心。同时,驳斥“一党制的领导不能反腐败”论调。
第三,打击、篡改党十三大人事工作。为了大会做好准备,各级党委、党组织对干部资源规划做出严谨细致的筹备。根据总体计划,储备干部被派去培训、培养、调职,通过担任从低至高的诸多工作岗位进行实践磨炼、考验。该过程得到严谨细致的实施,确保民主、客观、公开、透明等要求,坚决不许权力贪婪者、拥有“跑职”、“跑权”、朋比作奸、利益群体、政治思想和道德、生活作风蜕化、“自我演变”、“自我转化”、官僚、贪污等腐败行为的人陷入新届各级党委之中。很明显,这是各级组织在十三大的人事方面的主动、预先、科学、公开的筹备工作。此事实驳斥一切论调,他们歪曲认为大会干部资源规划缺乏“透明度”,只是为了“利益群体”,“消除与会代表的权利”,“取消与会代表的应选、荐举、选举的民主、自由权利”等等。
迄今,递交十三大的各项文件受到各个文件小组的严谨细致的准备,反复多次征求政治局、书记处、中央执委会、各个部门的意见建议并正在广泛征求各级党组织、人民群众、党员、干部的积极意见建议。此过程中,党中央将会以“认真听取、酌量补助、最大限度接收”精神完善并递交十三大审核决定。十三大文件肯定会揭示我国各族人民稳步走向文明、先进的社会主义道路的正确方向,各项文件的价值是驳斥一切篡改歪曲的印证。

Đọc thêm...

Cảnh giác với thủ đoạn lợi dụng góp ý vào các văn kiện Đại hội XIII của Đảng để chống phá

01:03 |

Lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các cấp trong Đảng và mọi tầng lớp nhân dân vào các văn kiện trước khi đại hội Đảng vừa là nguyên tắc, vừa là truyền thống phát huy dân chủ trong Đảng; đồng thời, thể hiện sự gắn bó hữu cơ “giữa Đảng với Nhân dân”, “giữa lý luận với thực tiễn phong phú, sinh động”. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch lại lợi dụng chủ trương đó để chống phá. Trên mạng xã hội - một kênh thông tin và tương tác tiện dụng với nhiều người đã được họ lợi dụng tấn công một cách ác ý vào văn kiện của Đảng, hòng làm mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và giá trị các văn kiện đại hội Đảng. Có thể thấy điều đó, trên mấy khía cạnh sau:
1- Tập trung chống phá đường lối, quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Họ cho rằng, văn kiện Đại hội lần này cũng chỉ là sự sao chép và biến tấu từ văn bản các đại hội trước; nội dung không có giá trị gì với sự phát triển đất nước, mà ngược lại là nhân tố kìm hãm sự tiến bộ của dân tộc ta. Bởi vậy, cũng như trước đây, văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ là những vấn đề sáo rỗng, giáo điều, bảo thủ; khư khư ôm giữ chủ nghĩa Mác - Lênin để duy trì quyền lực của Đảng mà thôi! Dưới hình thức: “Thư ngỏ”, “Thư góp ý”, “Trao đổi về Đại hội 13, Đảng Cộng sản Việt Nam”,… họ kiến nghị lấy lại tên Đảng, tên Nước trước đây cho “hợp với lòng dân” và để “quy tụ được ý chí của toàn dân tộc”, khởi động tinh thần Việt Nam, kết thành sức mạnh to lớn vượt qua mọi thách thức, chớp lấy thời cơ, đưa đất nước tiến lên! Và trước việc Đảng, Nhà nước ta xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sai phạm, thì họ xuyên tạc là “thanh trừng nội bộ”, “trả thù cá nhân”, v.v. Từ đó, họ kích động các đối tượng bất mãn viết bài tung lên mạng xã hội, tạo dư luận đòi: Việt Nam phải “thay đổi toàn bộ khung, sườn”, tức là xóa bỏ chế độ “độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản”, thực thi “đa nguyên, đa đảng”, “xã hội dân chủ”, đừng trông chờ vào đường lối Đại hội XIII.
Thực tiễn minh chứng: kể từ ngày thành lập đến nay, cùng với Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng (03/02/1930), Đảng ta đã có 12 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc. Mặc dù, mỗi đại hội diễn ra trong những bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng các văn kiện đại hội Đảng đều chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa to lớn về cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân - ý Đảng, lòng dân là một, tạo sức mạnh vô song chiến thắng kẻ thù xâm lược và từng bước vững chắc trong tiến trình bảo vệ, xây dựng đất nước. Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến cao trào cách mạng những năm 30, 40 của thế kỷ XX và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời, tạo cơ sở để Đảng đề ra đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” chống thực dân Pháp. Tại Đại hội II (02/1951), Đảng xác định quyết tâm lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đại hội III (9/1960), Đảng chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Sau khi đất nước thống nhất, từ Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng vạch ra và ngày càng bổ sung, hoàn thiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, trước những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ chế cũ dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh, Đảng đã tiến hành đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và từng bước hình thành Đường lối đổi mới đất nước. Đại hội VI (12/1986), đã phân tích sâu sắc tình hình đất nước, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của dân tộc. Sau Đại hội VI, tại các kỳ đại hội, nhất là Đại hội VII (6/1991) và Đại hội XI (01/2011) Đảng đã hoàn thiện và cụ thể hóa một bước đường lối đổi mới, mà nội dung cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Tại Đại hội XII (01/2016), Đảng đã đề ra chủ trương: tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, v.v.
Quán triệt quan điểm của các đại hội, phát huy kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế, Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày càng giành được nhiều thắng lợi. Nhờ đó, đất nước đã vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cũng như sự bao vây, cấm vận của kẻ thù, tiếp tục vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau hơn ba thập kỷ tiến hành đổi mới, từ một đất nước nghèo, trình độ thấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia đang phát triển, có văn hóa, xã hội phát triển, đời sống mọi mặt của nhân dân được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao, v.v. Đặc biệt, trước sự tàn phá của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, nhiều nước trên thế giới bị động, lúng túng trong đối phó dẫn đến tỉ lệ nhiễm bệnh và tử vong cao, đang đứng trước nguy cơ suy thoái kinh tế, thì Đảng và Nhà nước ta đã chủ động đề ra nhiều giải pháp phòng, chống quyết liệt ngay từ những ngày đầu dịch Covid-19 xuất hiện, bùng phát tại Vũ Hán (Hồ Bắc, Trung Quốc). Đồng thời, động viên toàn dân đoàn kết, phát huy cao độ vai trò của các lực lượng: Y tế, Quân đội, Công an; thực hiện nhiệm vụ “kép” phát triển kinh tế và chống dịch rất hiệu quả, v.v. Nhờ vậy, Việt Nam được thế giới đánh giá là nước khống chế dịch tốt nhất, có nền kinh tế tăng trưởng cao nhất ở châu Á hiện nay.
2- Lợi dụng việc chống tham nhũng để chống phá văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tham nhũng vốn là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp, đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước. Ở Việt Nam, những năm qua, vấn đề này cũng diễn ra hết sức nhức nhối; Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt phòng, chống rất hiệu quả tệ nạn đó. Cần khẳng định rằng, không phải đến bây giờ Đảng ta mới đề cập tới đấu tranh chống tham nhũng, mà vấn đề này Đảng đã nhận thức và cảnh báo từ rất sớm. Nhìn lại các kỳ đại hội Đảng từ sau đổi mới, các văn kiện Ðảng thường xuyên đề cập và nêu quyết tâm cao về phòng, chống nguy cơ suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ giữa nhiệm kỳ của Ðại hội VII, Ðảng ta đã xác định: tham nhũng và các tệ nạn xã hội, cùng với sự tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, là bốn nguy cơ của đất nước và chế độ. Tại Đại hội VIII, nhiệm vụ chống tham nhũng được đặt ra mạnh mẽ hơn (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) là minh chứng cụ thể). Các Ðại hội IX, X và nhất là nhiệm kỳ Đại hội XI, với Nghị quyết Trung ương 4, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng được đặt ra với quyết tâm chính trị rất cao. Đặc biệt, tại Đại hội XII, nhiệm vụ này được đặt ra rất quyết liệt, với: “cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng”1 và “cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng”2. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, công tác này được tiến hành quyết liệt, bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời, hiệu quả. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 08 tổ chức đảng, 45 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên; trong đó, 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm: 02 Ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương, 38 sĩ quan trong lực lượng Công an và Quân đội3, v.v. Nhờ đó, đã góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; đồng thời, bác bỏ luận điệu cho rằng: “Độc đảng lãnh đạo không thể chống được tham nhũng”!
3- Công kích, xuyên tạc về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Để chuẩn bị cho Đại hội, công tác quy hoạch nguồn cán bộ được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị chặt chẽ, thống nhất. Căn cứ kế hoạch tổng thể, cán bộ trong diện quy hoạch được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công tác để rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, với nhiều cương vị công tác từ thấp đến cao. Quá trình này được các cấp tiến hành chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch; kiên quyết không để những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng,… vào cấp ủy khóa mới. Rõ ràng, đây là bước chuẩn bị nhân sự chủ động từ sớm, từ xa, khoa học và công khai của các cấp cho Đại hội XIII. Sự thực đó bác bỏ mọi xuyên tạc cho rằng: quy hoạch nguồn cán bộ của Đại hội là “thiếu minh bạch”, vì “lợi ích nhóm”; là “xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; là “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội”!, v.v.
Đến nay, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, được các tiểu Ban văn kiện chuẩn bị công phu, qua nhiều lần lấy ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, các bộ, ngành,… và đang tiến hành lấy ý kiến tham gia của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng các cấp và toàn dân. Quá trình đó, Trung ương sẽ “bình tĩnh lắng nghe, trân trọng, cân nhắc thật kỹ, tiếp thu tối đa mọi ý kiến”4 để hoàn thiện và trình Đại hội XIII xem xét quyết định. Chắc chắn văn kiện Đại hội XIII sẽ vạch ra được đường hướng đúng đắn để dân tộc ta vững bước trên con đường đi tới văn minh, hiện đại và giá trị các văn kiện sẽ là bằng chứng hùng hồn bác bỏ mọi sự xuyên tạc.

Đọc thêm...

印度尼西亚重申中国“九段线”违反《联合国海洋法公约》

22:17 |

印度尼西亚常驻联合国代表团在526日提交给联合国的公函中再次强调该国对东海问题的立场,其中指出,中国所谓“九段线”的诉求缺乏法律依据,严重违反1982年《联合国海洋法公约》。
印度尼西亚的公函也强调,该国对遵守包括《公约》在内的国际法的观点是一贯的,该国坚决反对违反国际法的诉求。
印度尼西亚常驻联合国代表团提交公函的目的是反对中国20191212日递交,关于反对马来西亚200海里以外延伸大陆架的公函、2020323日提交,关于反对菲律宾声明的公函,以及2020417日提交,关于中国对越南、马来西亚联合提交的200海里以外大陆架划界示意图的观点的公函等3份公函。
此前,印度尼西亚今年2月也强调,永远不会承认中国自己在东海划设的“九段线”。印度尼西亚反对中国本就是“单方面、没有法律依据、不被《公约》承认”的历史性权利诉求。

Đọc thêm...

Indonesia gửi công hàm phản đối Trung Quốc lên Liên Hợp Quốc

21:15 |

Ngày 26-5, Phái đoàn thường trực của Indonesia tại LHQ đã gửi một công hàm số 126/POL-703/V/20 lên Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres để phản đối một loạt công hàm có liên quan tới yêu sách "đường chín đoạn" của Trung Quốc.
Loạt tài liệu này bao gồm các công hàm của Bắc Kinh phản đối đơn yêu cầu xác định vùng thềm lục địa mở rộng (bao gồm vùng biển ở nam Biển Đông) của Malaysia, phản đối các tuyên bố chủ quyền hợp pháp của Việt Nam và phản đối tuyên bố chủ quyền của Philippines ở Biển Đông.
Đầu tiên, Indonesia tái khẳng định nước này không phải là một bên có tranh chấp ở Biển Đông.
Indonesia chỉ trích yêu sách "đường chín đoạn" phi pháp của Bắc Kinh và nhắc lại phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế (ICJ) trong vụ Philippines kiện đòi bác bỏ yêu sách trên.
"Indonesia nhắc lại rằng bản đồ đường chín đoạn gián tiếp thể hiện yêu sách quyền lịch sử (của Trung Quốc - PV) thiếu cơ sở pháp lý quốc tế một cách rõ ràng, đồng nghĩa với việc đi ngược (Công ước của LHQ về Luật biển) UNCLOS 1982".
Lập trường này của Jakarta "cũng được khẳng định trong phán quyết của ICJ ngày 12-7-2016 rằng bất kỳ quyền lịch sử nào mà Trung Quốc có thể có đối với các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật đều đã bị bác bỏ bằng các giới hạn vùng biển được quy định trong UNCLOS 1982" - công hàm viết.
Công hàm nêu rõ: "Là một quốc gia tham gia UNCLOS 1982, Indonesia luôn kêu gọi tuân thủ đầy đủ luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982".
Nội dung công hàm ngày 26-5 đã nhắc lại quan điểm của Jakarta nêu trong công hàm số 480/POL-703/VII/10 ngày 8-7-2010 của Phái đoàn thường trực của Indonesia tại LHQ phản đối bản đồ "đường chín đoạn" của Trung Quốc.
Ông Gregory Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), cho rằng đây là hành động đột phá của Indonesia.
Ông lưu ý rằng đây là lần đầu tiên Indonesia đã "vượt qua nỗi sợ chính trị" trước Bắc Kinh để viện dẫn cụ thể phán quyết của ICJ trong một công hàm.
Theo ông Poling, trong "bốn năm qua" Jakarta luôn dè dặt và tránh nhắc đến phán quyết này trong các phát ngôn phản đối Trung Quốc.
Ông Poling đánh giá chính phủ Philippines sẽ rất mong chờ Indonesia tiếp tục tuyên bố thẳng thắn như vậy và sự ủng hộ của Jakarta có thể "một phần quan trọng trong việc hình thành một liên minh" giữa các quốc gia Đông Nam Á để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc.

Đọc thêm...

世界多国加快与中国脱钩

01:30 |

          新冠肺炎疫情促使以美国为首的西方各国想方设法与中国脱钩。新冠肺炎疫情不仅造成巨大的生命和经济损失而且还激化美国及其盟国与中国原有的矛盾,导致全球经济和政治格局发生了巨大变化。
          最近美中贸易战呈现激化迹象,主要原因是与新冠肺炎疫情的病毒溯源有关。这场冲突还从贸易和安全领域蔓延至金融和技术及其他领域。不仅美国,世界多个国家在与中国关系方面正采取更慎重的政策。
          美国国务院23日指控中国阻挠美国两家航空公司重启航班的要求,同时要求中国四家航空公司递交飞行日程和相关信息。522日,美国商务部通报把中国七家公司和两家机构列入实体清单(黑名单)。对于最新被加入黑名单的这些公司,这意味着它们购买美国公司的产品将受到限制。其中要求被视为危害美国国家安全或外交政策利益等的相关组织和个人申请更多许可证。这是美中关系紧张的两个最新动态。
          美中关系紧张还蔓延至财政和技术领域。523日,中国香港恒生指数跌幅达百分之五点六,创香港股市五年来的最大跌幅。主要原因是投资者对中国公布《全国人民代表大会关于建立健全香港特别行政区维护国家安全的法律制度和执行机制的决定》反应强烈。最新动态是,美国参议院通过了中国企业不能在美国证券交易所上市或在美国融资的法案,除非这些公司遵守美国审计规定和标准。
          在技术战场上,5G无线网和中国华为集团正成为美中竞争的焦点。美国曾多次以国家安全为由对5G无线网实施多项限制。515日,美国商务部宣布凡是用美国设备和技术为华为集团生产芯片的全球公司必须得到美国的许可证。
          新冠肺炎疫情导致世界多国重新审视与中国的关系
          美中关系紧张也使美国的盟国对其与中国的关系进行考虑。相比贸易战,新冠肺炎疫情似乎成了美国的盟国果断站边的催化剂。其中最具代表性的是美国的特殊盟国——英国。20204月,许多英国议会议员呼吁英国首相约翰逊在新冠肺炎疫情结束后对英中关系进行评估。英国政府正拟定计划,以严格管控该国的战略工业和高技术产业,目的是减少中国华为集团今后三年对英国5G电信网建设项目的参与。这明显体现了英中关系的冷淡。甚至,英国外交大臣拉布528日还宣布停止与中国的正常关系。
          与此类似,中国与澳大利亚关系正成为新冠肺炎疫情后值得关注的焦点。中国对澳大利亚大麦征收百分之八十的关税被视为该国针对澳大利亚要求对新冠肺炎疫情进行独立调查的一种还击措施。
          新冠肺炎疫情正加剧原本就紧张的美中两国关系,有可能引发一场新冷战。新冠肺炎疫情还影响了中国与其重要经贸和投资伙伴的关系。世界各国间的互相指控有可能导致原本就十分复杂和混乱的国际局势更加混乱和动荡。

Đọc thêm...

Nguy cơ căng thẳng giữa Trung Quốc và nhiều nước hậu Covid-19

01:09 |

Cuộc đối đầu thương mại Mỹ-Trung thời gian qua đang có dấu hiệu nóng trở lại liên quan đến tranh cãi giữa hai bên liên quan đến nguồn gốc virus SARS-CoV-2 gây ra đại dịch Covid-19. Xung đột còn lan rộng từ thương mại, an ninh sang nhiều lĩnh vực khác như tài chính, công nghệ. Và không chỉ Mỹ, nhiều quốc gia khác cũng đang áp dụng chính sách “thận trọng” hơn trong quan hệ với Bắc Kinh.
Bộ Giao thông Mỹ hôm 23/5 cáo buộc Trung Quốc cản trở nhu cầu nối lại đường bay của hai hãng hàng không Mỹ, đồng thời yêu cầu bốn hãng hàng không Trung Quốc phải nộp lịch trình và các thông tin liên quan. Ngày 22/5, Bộ Thương mại Mỹ thông báo đưa 9 thực thể mới của Trung Quốc vào "danh sách đen" kinh tế. Các đối tượng trong danh sách đen kinh tế phải đối mặt với một số hạn chế đối với các mặt hàng của Mỹ theo Quy định quản lý xuất khẩu, bao gồm các yêu cầu giấy phép bổ sung, đối với các cá nhân hoặc tổ chức được cho là có liên quan đến "các hoạt động đi ngược lại với an ninh quốc gia hoặc lợi ích chính sách đối ngoại" của Mỹ. Đây là 2 diễn biến mới nhất trong số rất nhiều khía cạnh căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Trung thời gian qua.
Trước đó, đầu tháng 5, Tổng thống Donald Trump tuyên bố đang cân nhắc khôi phục các chính sách thuế để trả đũa Trung Quốc cho đại dịch hiện nay và doạ sẽ quay lưng với thoả thuận thương mại Mỹ-Trung giai đoạn 1.
Căng thẳng còn lan ra cả lĩnh vực tài chính và công nghệ. Hôm 23/5, chỉ số Hang Seng của Hong Kong đã rớt 5,6%, đánh dấu mốc thấp nhất trong 1 ngày giao dịch của chứng khoán Hong Kong trong gần 5 năm qua. Nguyên nhân xuất phát từ việc các nhà đầu tư phản ứng sau khi Bắc Kinh công bố dự thảo quyết định luật an ninh quốc gia mới dành cho đặc khu này. Trong động thái mới đây, Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật có thể ngăn doanh nghiệp Trung Quốc niêm yết trên các sàn chứng khoán Mỹ hoặc huy động vốn từ nhà đầu tư Mỹ, trừ khi những công ty này tuân thủ các quy định và chuẩn mực kiểm toán của Mỹ.
Ở "đấu trường" công nghệ, cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung hiện đang xoay quanh mạng không dây 5G với Tập đoàn công nghệ Huawei rơi vào tâm điểm. Phía Mỹ đã liên tục áp đặt nhiều giới hạn với hãng công nghệ này vì lý do an ninh quốc gia. Hôm 15/5, Bộ Thương mại Mỹ công bố tất cả các nhà sản xuất chip nước ngoài sử dụng công nghệ Mỹ sẽ phải đăng ký giấy phép trước khi bán hàng cho Huawei.
Quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng cũng thúc đẩy các đồng minh của Mỹ suy xét về mối quan hệ với Trung Quốc. Nếu so với chiến tranh thương mại, dịch COVID-19 dường như là chất xúc tác để các đồng minh của Mỹ thể hiện quan điểm rõ ràng, quyết đoán hơn. Anh, đồng minh đặc biệt của Mỹ, là một trong số đó. Tháng 4/2020, nhiều nghị sĩ Anh đã lên tiếng kêu gọi Thủ tướng Anh Boris Johnson đánh giá lại mối quan hệ với Trung Quốc sau khi đại dịch COVID-19 kết thúc. Chính phủ Anh đang có kế hoạch kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các ngành công nghiệp chiến lược và công nghệ cao của Anh, cụ thể là đưa ra các kế hoạch nhằm giảm sự tham gia của tập đoàn viễn thông Huawei vào xây dựng mạng viễn thông 5G trong 3 năm tới ở Anh. Sự thay đổi về chính sách này là biểu hiện mới nhất về quan hệ lạnh nhạt giữa London và Bắc Kinh. Thậm chí, Ngoại trưởng Anh Dominic Raab hôm 28/5 đã công bố chấm dứt “quan hệ bình thường” với Trung Quốc.
Tương tự, quan hệ Trung Quốc-Australia đang là một điểm nóng đáng chú ý hậu đại dịch. Việc Bắc Kinh tăng thuế lúa mạch Australia lên 80% như một cách đáp trả việc Canberra ủng hộ một cuộc điều tra độc lập, đầy đủ hơn về thủ phạm gây ra đại dịch. Khẩu chiến và trả đũa lẫn nhau vẫn đang tiếp diễn và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Đại dịch Covid-19 đang khoét sâu những căng thẳng vốn có giữa Mỹ và Trung Quốc và có thể châm ngòi cho 1 cuộc chiến tranh lạnh mới. Dịch bệnh cũng làm ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa Trung Quốc và nhiều đối tác quan trọng của Trung Quốc về kinh tế, thương mại và đầu tư. Các chiến dịch cáo buộc qua lại lẫn nhau giữa các nước có thể khiến môi trường quốc tế vốn đã phức tạp với nhiều dịch chuyển do đại dịch Covid-19 gây ra càng thêm xáo trộn và bất ổn.

Đọc thêm...

Hot (焦点)