绝不能忽视破坏势力推行的“警惕精神懈怠”伎俩

09:29 |

 

松懈、丧失警惕必然会导致防控“和平演变”战略斗争失败。敌对势力推行的“警惕精神懈怠”是极为险恶、复杂的破坏招数,我们绝不能忽视,必须一直保持警惕精神,在此场没有硝烟的斗争中必须明辨其阴谋并对此作出坚决、坚持的斗争,进而获胜。

为了实现“警惕精神懈怠”阴谋,敌对势力明确他们手段、招数中以攻心战为主的目标。为了实现此目标,他们采用社会心理作用方式,通过令人莫测的手段何时何地攻占人家心里和精神转化对方,向每个人、群体渗透,以便“摇动”其思想认识,“侵蚀”人情,操控其意志和行动,推动对方在社会生活各方面的内部“自我演变”、“自我转化”。

对于思想、理论方面,为了实现社会腐化、理想腐化的阴谋,进而攻破形态意识,排除社会主义制度,他们在暗中传播反动思想,操纵党员、干部及人民的认识、感情,造成“自我演变”、蜕化取向,引起对马列主义、胡志明思想的怀疑心理,对党和国家政府的路线和政策缺乏信心。敌对势力常用的伎俩是用“张冠李戴”方式对各个理论问题进行剪裁或组合,以便歪曲、否定马克思列宁主义。实质上,他们故意避免提起以不可否认的理论“基石”为统一整体理论的马列主义。与此同时,他们动用许多扰乱理论、思想的花招,淡化政治思想体制,造成误认,即似乎没有阶级斗争问题,没有敌我问题。实际上,这些伎俩或多或少发挥了其作用。显而易见的是,当敌对势力以极为危险的千姿万态手段大力推动破坏活动时,许多人则懈怠警惕精神认为“和平演变”只是在共产者想象之中。这些思想若在社会中逐渐膨胀,将会很危险。因此,必须高度保持对敌对势力的这个伎俩的警惕。

敌对势力也利用文化融洽和渗透以许多形式、途径给我国社会正注射“文化镇定剂”,以便在社会传播反动、有害文化,腐化传统文化和社会主义文化价值,导致部分党员、干部及人民的政治、道德、生活作风的蜕化。他们以科学研究、研讨会等途径为思想不满分子和知识分子、机会主义者创造论坛,把他们从有力的传播者转化成为“内部的抵抗力量”,这极为危险。他们还翻着民族的历史,以缺乏客观性的论调歪曲捏造事实。听起来似乎相对正当,但是事实上仅为反动势力的妄图服务,以便促进民族大团结分裂,播下对由党领导以来的国家历史的怀疑种子。

经济是敌对势力以专业性的骗局对许多人“摆迷魂阵”的领域。依靠若干资本主义发达国家的调整政策并以片面性、缺乏善意的眼光看待我国经济体制的弱点,他们加大歪曲、否认宣传活动,妄图“重新发现”马列主义、胡志明思想、我党的经济路线、观点,同时对我国经济体制促进资本主义经济因素的繁衍。更为危险的是,此路径则通过国家干部培训、外国专家队伍在国内任教、搞研究等形式得以实现。他们也大力推动援助、投资、合资等一系列复杂的活动,企图逐步改变我国社会主义经济社会基础。许多人不知道,这些活动后面,敌对势力总是提出政治上的束缚条件和压力,故意对我国国民经济体制造成失衡的发展,在社会中营造享受心理、实用主义生活作风压迫社会主义精神基础的局面,以便对我国经济体制进行资本主义轨道的转化。这一切伎俩大打“自由化”牌时将会变得更加危险,以合作共赢名义淡化合作伙伴与作战对象之间的界限。

对于教育,如果破坏活动的外面表现是歪曲、篡改党和国家对教育、培训的领导路线和管理,彻底打击教育、培训中的若干薄弱环节,那么更为危险的深层度破坏在于是非模糊、针对该领域的破坏伎俩日趋专业化等。他们妄图以教育、培训方面的极为复杂手段腐化年轻一代人。比如,利用我党我国在教育、培训方面的根本性、全面性改革、革新主张,他们营造舆论施加压力,以便减少各级别的政治、思想、历史教育内容、计划,利用开放、融入、留学政策传播崇洋排内思想,使得年轻一代人失去了方向,被煽动,对党的理想淡化,走上叛国害民道路。如果不对这些举措的目前和长期威胁予以正确的辨别和适度的评价,将会带来难以预测的后果。

与此同时,“自由”、“民主”、“人权”等口号被敌对势力用具有美好人文性的花言巧语加大四处传播力度,以便掩盖黑暗的政治企图,欺骗人民群众,煽动、拉拢、集合力量破坏我党我国。为了干扰信息,敌对势力常把真假、是非信息混为一体,使得读者如进入网络空间信息迷宫那样,那里设好陷阱,通过像“囮子”般的评论、分享煽动读者,随之而来的是偏于主观、片面、模棱两可的分析、评论,干扰信息,引起读者的惊慌、怀疑心理。更危险的是,传播混乱、错误的信息使得许多人失去信心,排斥积极信息,对官方信息、事实也持怀疑态度。如果不清醒的话,很容易被牵引、欺骗、懈怠,失去警惕精神,不认识到自己在“自我演变”、“自我转化”。为了服务于就地破坏阴谋的推行,为外部干预找借口,敌对势力着力通过以代表不同社会群体的名义成立诸如“爱国青年一代”、“冤民协会”、“良心旧犯协会”、“越南人权网络”等国内破坏力量,大力推动所谓“民事社会”模式,公开、合法地形成与越南共产党相对的政治组织、力量,逐渐推行像“颜色革命”、“街头政治”那样的颠覆暴乱活动。他们以许多手段对人民群众“摆迷魂阵”。一方面,他们打着“出谋献策”、“反腐败”、“建议意见”旗号企图垄断我国政策,另一方面,着力集合群众,煽动众人心里,拉拢人民群众聚集、游行、示威、“公民不服从”等活动,引起政治安全和社会安全秩序的不稳以及政治“热点”,为外部的干预制造借口。为了拉拢众人的信从,他们相对有效使用迷惑人心、欺骗手段,以各个社会群体利益名义彻底利用民众的无知和听信并与许多诸如无边界记者RSF、国际特赦AI等国际组织紧密勾结做出破坏越南的各种活动。许多人已经听信他们,只有身陷囹圄时才能真正认清他们的“毒蛇”面目。显然,防控“和平演变”斗争中丧失警惕的后果不仅停留在每个人或社会群体要付出代价,而且还关涉到国家、民族、制度的存亡问题。

为克服在敌对势力破坏阴谋、手段前的懈怠、丧失警惕精神等表现的事务繁多。但是,首先要从加强各级党委、政府对纠正错误、及时防止基层单位的懈怠、丧失警惕表现的领导、指导工作入手,注重提高宣传、教育工作质量和效果,大力促进党员、干部、人民在任务情况、明辨敌对势力的阴谋、手段等方面的认识转变,使之看清当前部分党员、干部、人民警惕精神懈怠、轻视的危险。从此,提高各党组织、每个党员、干部及人民对本身工作领域、部门、本人为成员的每个组织的防控“和平演变”斗争的责任意识。

人家在安定的日常生活中容易丧失警惕感。那也是破坏种子渐渐繁衍并乘机爆发的时候。所以,防控党员、干部、人民在敌对势力错误观点前的“自我演变”、“自我转化”的斗争必须经常且有效进行。每个人要具备基本知识,提高在破坏论调前的“免疫力”。在接收、开发信息时要把握并严格执行法律规定,尤其是《信息接收法》、《网络安全法》、《社交网络行为准则》等等。每个党员、干部必须重视自我批评和批评工作,经常“自我检讨”、“自我纠正”,在执行党章和党、机关单位的相关规定时充分发挥模范作用,对社交网络上各个话题的发言、分享、评论、认定、评价持谨慎态度。那也是以“建”为“防”的对策,保持清醒态度,脱离信息“迷宫”,一直提高警惕精神,以免陷入敌对势力的“警惕精神懈怠”陷阱。(完)

Đọc thêm...

Không thể xem nhẹ thủ đoạn “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực chống phá

08:27 |

 

Mơ hồ, mất cảnh giác tất yếu sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Trò “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực thù địch là thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc, chúng ta không thể xem nhẹ, phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận diện đúng và kiên quyết, kiên trì đấu tranh để giành thắng lợi trong cuộc chiến không tiếng súng đầy cam go này.

Để “ru ngủ tinh thần cảnh giác”, các thế lực chống phá xác định đánh vào lòng người là mục tiêu chủ yếu trong các thủ đoạn, chiêu trò của chúng. Thực hiện mục tiêu đó, họ sử dụng các cách thức tác động tâm lý xã hội, đánh vào tâm lý, tinh thần bằng những thủ đoạn tinh vi làm chuyển hóa đối phương ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng nhóm để “lung lạc” nhận thức tư tưởng, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ đối phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, để thực hiện âm mưu làm biến chất xã hội, mục ruỗng lý tưởng, tiến tới phá sập hệ tư tưởng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, họ âm thầm gieo trồng những tư tưởng phản động; thao túng nhận thức, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến “tự diễn biến”, đổi màu, đổi hướng, gây tâm trạng hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thiếu niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường sử dụng là: cắt xén hoặc chắp ghép các vấn đề lý luận theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất là họ cố tình lảng tránh tiếp cận vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin theo một chỉnh thể thống nhất với những “hòn đá tảng” không thể phủ nhận. Cùng với đó, họ sử dụng nhiều chiêu trò gây hỗn loạn về lý luận, tư tưởng, làm mờ đi hệ tư tưởng chính trị, tạo ra sự ngộ nhận rằng, dường như không có vấn đề đấu tranh giai cấp, bạn - thù. Trên thực tế, những chiêu trò trên ít, nhiều đã phát huy tác dụng. Dễ nhận thấy, giữa lúc “diễn biến hòa bình” đang được các thế lực thù địch đẩy mạnh, với những biến tướng muôn hình vạn trạng hết sức nguy hiểm, thì nhiều người lại mơ hồ, mất cảnh giác khi cho rằng “diễn biến hòa bình” chỉ là sự tưởng tượng của những người cộng sản. Sẽ rất nguy hại nếu để các tư tưởng này lớn dần trong xã hội. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác với thủ đoạn “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực thù địch.

Lợi dụng sự hội nhập, giao thoa văn hóa, các thế lực chống phá cũng đang tiêm những “liều thuốc an thần văn hóa” cho xã hội ta bằng nhiều hình thức, nhiều con đường nhằm truyền bá văn hóa phản động, độc hại trong xã hội, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Họ thông qua con đường nghiên cứu, hội thảo khoa học để tạo diễn đàn cho các phần tử, những trí thức có tư tưởng bất mãn, cơ hội, chống đối; biến họ từ cái loa tuyên truyền đắc lực thành “lực lượng chống đối từ bên trong” rất nguy hiểm. Chúng còn lật lại lịch sử của dân tộc, phán xét bằng những lời lẽ thiếu khách quan, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Thoạt nghe có vẻ chính đáng nhưng sự thật chỉ phục vụ mưu đồ của các thế lực phản động, thiếu thiện chí nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gieo rắc sự hoài nghi đối với lịch sử đất nước từ khi có Đảng lãnh đạo.

Lĩnh vực kinh tế là nơi các thế lực chống phá “bỏ bùa mê” nhiều người với những chiêu trò rất bài bản. Bấu víu vào những biến đổi thích nghi của một số nước tư bản phát triển và nhìn những khuyết điểm, yếu kém của nền kinh tế nước ta bằng con mắt phiến diện, thiếu thiện chí, họ tập trung tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận, đòi xem xét lại những tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm kinh tế của Đảng ta; đồng thời, thúc đẩy sự phát triển các yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta. Nguy hiểm hơn, khi điều đó được thực hiện thông qua con đường đào tạo cán bộ cho đất nước, đội ngũ chuyên gia nước ngoài làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trong nước. Họ cũng đẩy mạnh các hoạt động viện trợ, đầu tư, liên doanh, liên kết hết sức tinh vi nhằm từng bước đổi màu cơ sở kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều người không biết rằng, đằng sau các hoạt động đầu tư, viện trợ, các thế lực thù địch luôn đặt ra những điều kiện ràng buộc, gây sức ép về chính trị, cố tình tạo sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế quốc dân; tạo ra tâm lý hưởng thụ, lối sống thực dụng lấn át nền tảng tinh thần xã hội chủ nghĩa trong xã hội để từng bước chuyển hóa nền kinh tế nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Tất cả những chiêu trò ấy càng tăng thêm sự nguy hiểm khi chúng núp dưới vẻ bề ngoài “tự do hóa”, hợp tác cùng phát triển để xóa nhòa ranh giới đối tác, đối tượng.

Trên lĩnh vực giáo dục, nếu như bề nổi của sự chống phá là những xuyên tạc, bóp méo đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước về giáo dục, đào tạo; triệt để khai thác một số yếu kém trong giáo dục, đào tạo,… thì sự nguy hiểm nằm ở phần chìm, sự lập lờ đúng sai, có chiến lược bài bản trong các chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch trong lĩnh vực này. Họ âm mưu “đổi màu” thế hệ trẻ bằng con đường giáo dục, đào tạo với những thủ đoạn vô cùng tinh vi. Chẳng hạn như: lợi dụng chủ trương cải cách, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng, Nhà nước ta, họ tạo dư luận để gây sức ép cắt giảm chương trình, nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng, lịch sử trong các cấp học; lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập, du học để tiêm nhiễm những tư tưởng sùng ngoại, bài nội, làm cho thế hệ trẻ bị mất phương hướng, bị kích động, phai nhạt lý tưởng của Đảng, đi theo con đường phản nước, hại dân, v.v. Điều này nếu không nhận diện, đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cả trước mắt và lâu dài sẽ để lại những hệ lụy khôn lường.

Cùng với đó, các khẩu hiệu “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” vẫn được các thế lực chống đối trương lên khắp nơi bằng những mỹ từ bóng bẩy với lý tưởng mang tính nhân văn cao đẹp để che đậy các mưu đồ chính trị đen tối, đánh lừa nhận thức của người dân, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước ta. Để đánh lạc hướng, các thế lực chống phá thường trộn lẫn thông tin thật - giả, đúng - sai, đưa người đọc đi vào ma trận thông tin trên không gian mạng với những cái bẫy đã giương sẵn, được dẫn dắt bởi những bình luận, chia sẻ “chim mồi” kích động, kèm theo đó là những phân tích, bình luận mang nặng tính suy diễn chủ quan, phiến diện, mập mờ càng gây nhiễu thông tin, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi cho người đọc. Nguy hiểm hơn, sự phát tán thông tin hỗn độn, sai lệch như thế làm cho nhiều người mất niềm tin, tẩy chay cả những thông tin tốt đẹp, hoài nghi với cả những thông tin chính thống, sự thật. Nếu không tỉnh táo sẽ rất dễ bị dẫn dắt, đánh lừa, ru ngủ, làm cho chúng ta mất cảnh giác, không nhận ra rằng mình đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Để phục vụ cho mưu đồ đẩy mạnh các hoạt động chống đối tại chỗ, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, các thế lực thù địch ra sức xây dựng lực lượng chống đối trong nước thông qua việc thành lập các hội, đoàn, nhóm lấy danh nghĩa là đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau, như: “nhóm tuổi trẻ yêu nước”, “hội dân oan”, “hội cựu tù nhân lương tâm”, “mạng lưới nhân quyền Việt Nam”,... thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự”, tạo ra con đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam một cách công khai, hợp pháp, tiến dần tới các cuộc bạo loạn lật đổ theo hướng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Chúng bỏ “bùa mê” quần chúng bằng nhiều thủ đoạn. Một mặt, chúng núp dưới danh nghĩa “hiến kế”, “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng”,... để hòng lũng đoạn chính sách; mặt khác, họ ra sức tập hợp quần chúng, kích động tâm lý đám đông, tổ chức người dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, “bất tuân dân sự”, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo ra các “điểm nóng”, bất ổn để tạo cớ can thiệp từ bên ngoài. Để lôi kéo nhiều người tin theo, họ sử dụng khá hiệu quả các chiêu trò mị dân, lừa gạt, nhân danh đại diện lợi ích của các nhóm xã hội, triệt để lợi dụng sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ của người dân và có sự móc nối, câu kết chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc tế thường xuyên có hoạt động chống phá Việt Nam, như: RSF (Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế), v.v. Nhiều người đã nhẹ dạ, cả tin theo chúng và chỉ khi đã vướng vào vòng lao lý mới thực sự nhận rõ bộ mặt “rắn độc” của chúng. Lẽ dĩ nhiên, hậu quả của việc mất cảnh giác trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” không chỉ dừng lại ở việc trả giá của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội mà liên quan đến sự tồn vong của chế độ, quốc gia, dân tộc.

Có nhiều việc phải làm để khắc phục tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Nhưng trước hết, phải bắt đầu từ việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền trong uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh ngăn chặn kịp thời những biểu hiện chủ quan, lơ là, mất cảnh giác ngay từ cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình nhiệm vụ, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; thấy rõ sự nguy hiểm, khôn lường của tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ngay trên lĩnh vực, ngành mình công tác, trong mỗi tổ chức mà mình là thành viên.

Trong cuộc sống đời thường, êm ả, người ta thường dễ mất cảnh giác hơn. Đó cũng là lúc những mầm mống của sự phá hoại âm thầm nảy nở, chờ đợi thời cơ bùng phát. Do đó, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, hiệu quả. Mỗi người cần chú trọng trang bị cho mình những kiến thức cơ bản, nâng cao khả năng tự “miễn dịch” trước các luận điệu chống phá. Nắm vững và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong tiếp cận, khai thác thông tin, nhất là Luật tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, v.v. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, phát huy trách nhiệm nêu gương trong chấp hành Điều lệ và các quy định của Đảng, của cơ quan, đơn vị; thận trọng trong phát ngôn, chia sẻ, bình luận, nhận định, đánh giá các vấn đề trên mạng xã hội. Đó cũng là cách lấy “xây” để “chống”, tỉnh táo để thoát khỏi “mê cung” thông tin, luôn đề cao tinh thần cảnh giác để tránh rơi vào cạm bẫy “ru ngủ” của các thế lực thù địch.

Đọc thêm...

在建设法治国家过程中保障人权

06:54 |

 

          (VOV) - 保障人权是越南建设社会主义法治国家的重要内容之一。这一观点在建设和完善社会主义法治国家的过程中一向得到贯彻和强调。

          尊重、保护和保障人权是越南共产党的一贯路线。自1930年成立以来,越南共产党一向关注保护人权,这体现在“自由越南”、“男女权利平等”和普及教育权等口号上。1951年举行的越共二大通过的越南革命论纲中,党明确提出确保所有公民都“享有人权、公民权和财产权”的目标。虽然只是简单一提,但这一时期党的观点和路线完全符合当时国际社会的进步人权意识。

          越南人权法律框架自1986年以来不断得到完善和巩固,其中包括具有转折性意义的成就,这体现在 1992年宪法的2001 年修订版和 2013 年版宪法等两个版本中。目前,越南人权法框架比较全面且基本与国际标准相适应。实际表明,越南在保障人权,特别是保障经济、社会和文化等权利方面取得了不可否认的巨大成就,并得到国际社会的高度评价。

          越南国家主席阮春福在20212月举行的《越南社会主义法治国家的理论与实践问题》科学研讨会上发表讲话时说:“法治国家的普遍、进步思想和价值观是国家必须将自己置于法律之下并受法律约束。二是把人民主权思想作为国家正当性和合法性的根源,一切都是为人民服务。三是强调公平、正义、人权的价值,将流行和普遍认可的法治国家构想、思想和价值观转化为国家和社会的实际组织和运作。”

          越南正在努力建设的社会主义法治国家是将世界法治知识创造性地、合理地运用到越南的实践中,既具有法治国家的普世价值和标准,又带有越南的特殊性。阮春福说:“越南社会主义法治国家的特点是:人民是国家权力的源泉和主体,一切权力属于人民,实行社会民主主义。强调民主与人民,维护人民合法权益。国家尊重和保护人权和公民权利,尊重越南加入的国际承诺。在国际一体化过程中加强国家与公民关系中的法律责任。”

      保障人权既是建设社会主义法治国家的重心要求,也是确保国家稳定的关键要素。因充分认识到在当前时期将建设社会主义法治国家与保障人权相结合具有重要意义,越南将其作为完善国家发展制度过程中的核心内容之一,这是符合国家实际情况和时代发展趋势的。(完)

Đọc thêm...

Bảo đảm quyền con người trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

06:21 |

 

(VOV) - Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là đường lối nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi thành lập (1930), Đảng đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, thông qua các khẩu hiệu đấu tranh cho “Việt Nam tự do”, “nam nữ bình quyền”, quyền phổ cập giáo dục...

Trong Luận cương cách mạng Việt Nam thông qua tại Đại hội lần thứ II (1951), Đảng khẳng định rõ mục tiêu bảo đảm mọi công dân đều “...được hưởng quyền con người, dân quyền và tài quyền”. Mặc dù mới chỉ mang tính khái quát, song quan điểm, đường lối của Đảng thời kỳ này hoàn toàn phù hợp với nhận thức tiến bộ về quyền con người của cộng đồng quốc tế ở thời điểm đó.

Khung khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam liên tục được hoàn thiện và củng cố từ năm 1986, trong đó những thành tựu có tính bước ngoặt được thể hiện tập trung qua 2 bản Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Cho đến nay, khung khổ pháp luật về quyền con người của Việt Nam đã khá toàn diện và cơ bản tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế.

Thực tế cũng cho thấy, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn không thể phủ nhận trong việc bảo đảm quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Có thể thấy những giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền về chủ quyền Nhân dân, về tư tưởng đề cao giá trị công bằng, công lý, quyền con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam  và Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tới như sợi chỉ đỏ xuyên suốt về xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, khi đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, việc Việt Nam tiếp tục hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi để đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền con người cũng chính là một trong những hoạt động quan trọng bậc nhất để đạt được mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phát biểu tại Hội Tại Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” (tháng 12/2021), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: "Những tư tưởng, giá trị phổ biến và tiến bộ của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, chịu sự ràng buộc của pháp luật. Thứ hai là tư tưởng về chủ quyền nhân dân với tính cách là nguồn gốc tính chính đáng, tính hợp pháp của Nhà nước, tất cả phục vụ nhân dân. Thứ ba là đề cao những giá trị công bằng, công lý, quyền con người, để biến những ý tưởng, tư tưởng, giá trị phổ biến, được thừa nhận chung của Nhà nước pháp quyền vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của một Nhà nước và xã hội".

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là sự vận dụng sáng tạo, hợp lý tri thức về nhà nước pháp quyền của thế giới vào thực tiễn Việt Nam, vừa mang đầy đủ những giá trị phổ quát, chuẩn mực của một nhà nước pháp quyền, vừa mang những nét đặc thù của Việt Nam.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: "Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là:  Nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể quyền lực của Nhà nước, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh dân chủ với nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân. Nhà nước tôn trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nâng cao trách nhiệm pháp lý trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong lúc hội nhập quốc tế".

Việc bảo đảm quyền con người không chỉ là một yêu cầu trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà còn là một yếu tố cốt lõi để bảo đảm sự ổn định đất nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng, ý nghĩa của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với bảo đảm quyền con người trong giai đoạn hiện nay, xem đó như là một trong những nội dung cốt lõi trong quá trình hoàn thiện thể chế phát triển của đất nước, là phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.

Đọc thêm...

越南加入东盟27周年:强化越南在区域的核心作用

09:28 |

 

(越通社)2022728日是越南正式加入东盟27周年的日子。27年来,越南已经成为维护地区和平与繁荣以及将东盟建设成为以人民为中心的共同体的主动、积极和负责任成员之一。

越南自1995728日正式加入东盟以来,越南对东盟的外交路线和政策已成为新时期越南外交政策的重要组成部分,并明确在党代会文件中。

越共十一大(20111月)文件中指出,“越南将积极、主动和负责任地同东盟各国一道,携手共建强大的东盟共同体,加强与各合作伙伴的关系,维持与巩固东盟在亚太地区合作框架中的重要作用”,同时确定“努力同东盟各国同心协力将东南亚建成一个和平、稳定、合作与繁荣发展的地区”的任务。

越共十二大(20161月)文件中明确了东盟合作方向:“主动、积极、负责地与东盟国家一道,构建强大的共同体。”,“主动参与并发挥越南在东盟和联合国等多边机制中的作用”。

在此基础上,越南加入东盟已成为越南外交政策的核心,是越南在东盟多边外交的核心战略。

201888日,越共中央书记处颁发了“关于至2030年推动与打造多边外交升级版”的第25号指示,指示再次强调了“继续促进和有效利用东盟经济共同体成员的优势”、“发挥越南在2025东盟政治安全共同体建设中的地位,提升东盟在该地区的核心作用及其在国际舞台上的地位和存在”。

由此可见,27年来,越南对东盟的政策体现了外交思想的根本性发展和变化,已成为国家外交政策的重要组成部分。

越南积极、主动和负责任地参与以人为核心的东盟共同体建设过程。具体的是,越南于2010年及2020年分别担任东盟轮值主席国;成功举行第6届、第17届、第36届和第37届东盟峰会;成功举行世界经济论坛东盟峰会(2018年);第41届东盟议会联盟大会(AIPA 41)(2020年);东盟致力于可持续发展和包容性增长的次区域合作高级别论坛(2021年)等。

同时,越南还担任东盟与欧盟关系协调国;自20227月起担任东盟驻阿根廷布宜诺斯艾利斯委员会轮值主席等。

东盟高官会越南代表团代理团长武胡大使表示,27年来,越南为东盟的发展做出了巨大贡献。1994年,越南是东盟地区论坛的创始国之一,随后东盟一系列机制也得到越南的支持。

武胡大使补充道,越南是一个对共同体和对包括东南亚在内的外部世界非常负责任的伙伴。

武胡大使表示,2022年东盟年以《东盟行动—共同应对挑战》为主题,越南一直为维护本地区和平稳定和人民生活稳定保障作出了诸多贡献。

2022年和下一个阶段,越南始终以和平稳定为目标,以责任为宗旨加入东盟。与此同时,本着合作精神和尊重国际法的精神,就所有问题进行坦诚的对话。这也是东盟的原则。武胡大使补充说,越南为制定《东海各方行为宣言》(DOC)作出了积极的贡献,正在积极参与制定《东海行为准则》(COC)进程。 这些活动均有助于建立信任、管控分歧。

2020626日,第36届东盟峰会开幕式在河内举行(图片来源:越通社)

近期,越南外交部副发言人范秋姮表示:“越南加入东盟是国家深度融入地区和国际的重要里程碑。该进程在越南与各国和世界上各组织在政治、经济、外交和其他方面的深度融入的情况下不断推进的。”

自加入东盟以来,越南日益彰显着本国是东盟和国际社会积极和负责任的成员。越南已同东盟各国在政治、经济、文化-社会三大支柱上构建东盟共同体,特别是优先推进东盟的互联互通。

在该过程中,越南同东盟各国扩大与世界上许多合作伙伴的关系。其充分体现在世界上许多国家继续希望成为越南的合作伙伴。

在东盟面临领土争端、自然灾害、疫情、跨国犯罪等传统和非传统挑战的背景下,越南以其在东盟的核心作用,继续弘扬对话合作精神,增进相互了解,缩小分歧,确保国家的利益和谐,避免冲突和矛盾。

Đọc thêm...

27 năm Việt Nam gia nhập ASEAN: Khẳng định vai trò trung tâm

08:26 |

 

Ngày 28/7/2022 đánh dấu kỷ niệm 27 năm ngày Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trở thành một trong những thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong duy trì hòa bình, thịnh vượng ở khu vực, xây dựng ASEAN trở thành một Cộng đồng chung hoàn thiện, lấy người dân làm trung tâm.

Kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ mới, và được chỉ đạo rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng.

Văn kiện Đại hội XI (tháng 1/2011) nêu rõ: "Việt Nam chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương," đồng thời xác định nhiệm vụ "Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh."

Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016) đã xác định phương hướng đối với hợp tác trong ASEAN là "chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh," "chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc."

Với định hướng này, việc tham gia ASEAN trở thành một trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, một trọng tâm chiến lược của ngoại giao đa phương trong ASEAN của Việt Nam.

Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư về "Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030" một lần nữa nhấn mạnh cần "tiếp tục phát huy và khai thác có hiệu quả vai trò thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN," "phát huy vị thế của Việt Nam trong xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN 2025, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực và nâng cao vị thế, sự hiện diện của Cộng đồng trên trường quốc tế."

Như vậy, trong suốt 27 năm qua và kể cả trước đó, chính sách của Việt Nam với ASEAN phản ánh sự phát triển căn bản trong tư duy đối ngoại và đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của đất nước.

Điểm lại các mốc nổi bật trong 27 năm Việt Nam tham gia ASEAN cho thấy một Việt Nam tích cực, chủ động và đầy trách nhiệm với quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, ở đó người dân là trung tâm.

Đó là việc hai lần đảm nhiệm Chủ tịch luân phiên ASEAN (2010, 2020); tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6, lần thứ 17 và lần thứ 36, 37 (1998, 2010, 2020); tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF on ASEAN) năm 2018, Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN lần thứ 41 (AIPA 41) năm 2020, Diễn đàn cấp cao của ASEAN về hợp tác tiểu vùng vì tăng trưởng bao trùm và phát triển bền vững năm 2021.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đảm nhiệm vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN với Liên minh châu Âu (EU); là Chủ tịch luân phiên Ủy ban các nước ASEAN tại Buenos Aires từ tháng 7/2022.

Đánh giá về những đóng góp nổi bật của Việt Nam trong ASEAN 27 năm qua, ông Vũ Hồ, Quyền trưởng SOM ASEAN Việt Nam cho biết trong 27 năm qua, Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho các bước phát triển của ASEAN.

Việt Nam là nước đầu tiên thành lập Diễn đàn khu vực của ASEAN (gọi tắt là ARF) vào năm 1994, sau đó là một loạt cơ chế của ASEAN đều có sự đóng góp của Việt Nam.

Ví dụ, cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng được thành lập vào thời kỳ Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN năm 2010 hay các cơ chế về phòng, chống COVID-19, các dịch bệnh khác.

Những bước đi hướng tới tương lai của ASEAN, như những trao đổi về tầm nhìn ASEAN sau 2025, cũng đều là các sáng kiến của Việt Nam.

Một đóng góp có ý nghĩa quan trọng nữa, theo ông Vũ Hồ, đó là sự khẳng định vị thế cũng như chính sách của Việt Nam đối với khu vực và thế giới. Đó là việc lấy đối thoại và hợp tác, luật pháp quốc tế làm công cụ chủ yếu trong quan hệ với các nước xung quanh, lấy sự hòa hiếu làm tiền đề để có thể trao đổi, hợp tác.

Từ đó, khẳng định rõ Việt Nam là một đối tác hết sức trách nhiệm với cộng đồng, với quan hệ của mình, với thế giới bên ngoài, trong đó có cả khu vực Đông Nam Á.

 

Cũng theo ông Vũ Hồ, với chủ đề của năm ASEAN 2022 là "ASEAN hành động cùng ứng phó với thách thức," Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp trong duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực cũng như đảm bảo đời sống ổn định của người dân ở khu vực ASEAN.

Trong năm 2022 cũng như giai đoạn tiếp theo, Việt Nam luôn lấy hòa bình và ổn định làm mục tiêu, lấy tinh thần trách nhiệm làm phương châm khi tham gia ASEAN.

Cùng với đó là sự đối thoại chân thành, thẳng thắn tất cả các vấn đề dựa trên tinh thần hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế. Đây cũng chính là các nguyên tắc của ASEAN.

Ông Vũ Hồ nêu ví dụ, Việt Nam đã tham góp vào việc xây dựng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đang tham gia hết sức tích cực vào quá trình xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Những hoạt động này đều đóng góp cho quá trình xây dựng lòng tin, kiểm soát xung đột, tranh chấp.

Mới đây, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết: "Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đánh dấu một dấu mốc quan trọng trong hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng của đất nước. Tiến trình đó được diễn ra với sự hội nhập sâu rộng về chính trị, kinh tế, ngoại giao và tất cả các mặt khác với các nước và các tổ chức trên thế giới của Việt Nam."

Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam ngày càng chứng tỏ mình là thành viên hết sức có trách nhiệm, tích cực đối với ASEAN cũng như cộng đồng thế giới.

Việt Nam cùng với các nước ASEAN đã tích cực xây dựng cộng đồng ASEAN trên tất cả các trụ cột từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và đặc biệt là dành ưu tiên cho tăng cường kết nối ASEAN.

Và trong quá trình đó, Việt Nam cùng với các nước ASEAN mở rộng quan hệ với rất nhiều đối tác trên thế giới. Điều đó được phản chiếu bằng việc rất nhiều nước trên thế giới tiếp tục muốn trở thành đối tác của ASEAN.

Trong bối cảnh ASEAN đang đối mặt với những thách thức truyền thống và phi truyền thống, như tranh chấp lãnh thổ, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, Việt Nam, với vai trò trung tâm ASEAN tiếp tục thúc đẩy tinh thần đối thoại, hợp tác, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp bất đồng, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của các quốc gia, tránh các xung đột, mâu thuẫn./.

Đọc thêm...

祖国永记功劳

06:55 |

 

在党领导下,民族解放斗争与捍卫祖国边境战争和此后的国际义务是我国军民在胡志明时代的伟大事业。那是民族反外侵豪雄传统的继承,为祖国和民族争取独立、自由,为人民带来幸福。

但是,为了能取得这一成果,我们已付出了无法弥补的巨大代价,那是诸多越南人的牺牲、痛苦和损失,尤其是各位英烈和伤兵员。他们为祖国立下首功。光荣属于他们。他们—优秀一代人是民族的自豪感,他们的榜样永远闪耀着,永远活在越南人民的心中,祖国永远铭记他们的功劳。

今年,在我国落实越共十三大决议取得诸多重要成就的背景下,全党、全民和全军隆重举行荣军、烈士纪念日75周年(1947.7.27-2022.7.27)。尤其的是,新冠肺炎疫情被击退,社会各方面活动恢复新常态,反贪反腐斗争也取得了重要结果,创造了新气势、新顺利和新信心,让荣军、烈士纪念日更具深刻意义。值此之际,中央和各地方的纪念活动已经和正在得到广泛举办。通过这些务实的活动,继续肯定各位英烈、伤病员与革命功臣者的巨大贡献和牺牲,并体现党、国家和人民对他们的感恩之心。与此同时,进一步宣传、深化民族的“饮水思源”、“知恩图报”传统道理。从而,进一步提高对关心照顾政策优抚对象的认识与责任。

历经各场战争,全国拥有近120万位烈士,13.2万多位越南英雄母亲,9110多个集体和个人是人民武装力量英雄、劳动英雄。截至目前,全国拥有65万为伤兵员,近19.5万位病兵,3625位越南英雄母亲,89.05万位革命功臣者,以及数十万为参加抗战和执行国际任务而遭受战争后果的人。我党、国家和人民特别珍重和永远铭记为祖国贡献的同胞和战士的万泽之恩。

在实施,胡志明主席嘱咐:“伤兵、病兵、军人家庭、烈士家属是对祖国和人有功者。因此,我们的本分是要知恩、爱戴和帮助他们。”透彻领会他老人家的教诲,75年来,党和国家、各组织和全体社会一向关心落实好对荣军、烈士、革命功臣者的工作与拥军优属政策,为提高享受者的物质和精神生活作出贡献,巩固各阶层人民对党、国家、军队和社会主义制度的信心。

值得一提的是,关于优待革命功臣者的法律文件系统得到及时、同步颁发,为统一、有效开展落实这一工作打下法律基础。解决战争后政策工作得到紧抓、有效进行。“知恩图报”运动得到关紧推进,并在深度和广度发展。烈士遗骸搜寻归宿工作,维修烈士陵园、烈士纪念工程经常得到注重并取得了积极结果。五年来,军队已为“知恩图报”基金会捐献了五千亿越盾,建设了近4790栋温情屋,赠送3558本存款折,奉养2867位越南英雄母亲,使用29600多个工作日参与烈士陵园改造,总值达数万亿越盾。军队和各地方已配合审批烈士承认申请档案967件,伤兵员承认申请档案8700件,烈士遗骸搜寻归宿10886具,为数百名重伤兵孩子以及在执行军事、国防任务牺牲的烈士妻子、孩子提供就业机会。尤其的是,落实政府总理于20151014日的49号决定书,全国为120万余名参加抗战、保卫祖国和执行国际任务的对象解决了一次性补贴制度,总值达2.668多万亿越盾。这是党、国家、全民和全军对为祖国贡献和牺牲的人的感情、责任、感恩之心和特别关心的生动表现。

发挥上述结果,后续时间,全党、全民和全军继续深刻贯彻并严格落实党、国家关于照顾革命功臣者的观点、政策和法律。其中,要发挥全社会的综合力量,确保革命功臣者生活水平高于居住社区的平均水平。努力完成协助革命功臣者拥有住房,取消革命功臣者的贫困户。维修历史记功工程和烈士坟墓等。与此同时,为伤病员、烈士家属和革命功臣者发挥自立自强意志,发展生产,提高生活水平,并为建国卫国事业作出积极贡献采取扶助政策和创造便利条件。在党、国家的特别关心,全社会和全军的共同努力下,深信照顾革命功臣者的政策将继续带来好结果,为深化越南民族“饮水思源”、“知恩图报”传统道理作出贡献。(完)

Đọc thêm...

Hot (焦点)