坚韧不拔 参加EVFTA

21:59 |

(人民报)许多越南企业表示,他们已向欧盟出口首批商品,享受0%出口税率。这就是在正式生效的越欧自贸协定(EVFTA)之高速公路上坚韧不拔参加竞赛的心态。然而,为了企业挖掘好EVFTA带来的机会,应讨论的问题繁多。
EVFTA有助于提高品牌知名度
作为对欧盟出口高档大米的企业——忠安高技术农业股份公司拥有丰富出口经验,因此对如何向欧盟出口大米这一难题并不生疏。
忠安高技术农业股份公司总裁范太平表示,该公司正在抓紧完毕相关手续旨在以0%出口税率向欧盟出口首批大米。过去要承受高税率,但越南大米仍然能够出口到该市场,现在在这条道路上真是通行无阻。预测,今后越南对欧盟的大米出口将上涨。越南以出口企业名字而不是一直以来以外国企业的名字把大米出口到欧盟。
范太平先生表示,该公司已经与外国伙伴谈判以保留忠安公司的包装。他们终于因大米质量而对此表示同意。然而,不能否认的是鉴于EVFTA,越南大米在欧盟市场上的位置将上升。81EVFTA生效后,越南大米的出口机会莫大。享受0%税率是重要,但重中之重的是我们要集中树立越南大米品牌。然而,为了打入欧盟市场,越南大米出口公司应建设原料区,确保生产出清洁、优质的产品。其要求企业要支出大量资金以购买农民的稻子。如果不建设原料区的话,就没有达标产品以出口到欧盟。
可可生产与分销公司总经理陈越强表示,EVFTA带来的最大利益就是税率大幅下降。经营机会来了,但是企业要抓好机会,快速加强出口活动。目前,该公司正在制定迅速加大对欧盟市场出口力度的计划。实际上,最担忧的是追溯产品原产地的问题。越南可可好吃、质量良好,不过尚未发展,原因在于缺乏专耕生产区。如果我们可以根底解决上述问题,越南农产品不会亚于其他国家的产品。
原产地原则实施中的障碍
纺织品服装业是被视为从正式生效的EVFTA中最获益的产业,但是该产业仍未立刻挖掘机遇,因为由Covid19疫情而欧盟市场的消费需求下降。
兴安服装公司总裁阮春阳表示,原产地原则一直是越南企业的弱点。各家纺织品服装公司要满足从棉布起的原产地原则,但实际上,迄今我们还严重缺乏原材料,因此要从中国进口。这意味着,越南制品不满足原产地规则,因此不能享受关税优惠待遇。纺织品服装公司比任何谁更明白上述优势,然而,从中国进口的原辅料价格很便宜,因此有时候获得的利益比关税优惠待遇带来的利益更高。因而,企业宁可失去由优惠待遇带来的利益,而不改变原辅料原产地。
纺织品服装企业继续建议国家吸引外国公司对棉布与染纺领域进行投资,同时投资建设集中型工业园区,旨在发展国内原料区。这是帮助企业能够享受关税优惠待遇的先决条件。
像纺织服装业一样,鞋类产业也遭受Covid19疫情的影响。2020年前7个月鞋类出口额达95.3亿美元,同比下降7.9%。目前,欧盟是越南鞋类产业的传统市场,越南对该市场的年均出口额为近60亿美元,占30%。EVFTA生效后,鞋类产业希望2020年第二和第四季度鞋类出口额将回升,有助于弥补前几个月的损失。然而,像纺织品服装业一样该产业要面对的障碍就是原产地原则。
工贸部认为,EVFTA落到实处意味着越南商品打入总人口为5.08亿人及GDP规模为18万亿美元的欧盟市场之门比以往任何时候更广。据计划投资部的预测,该协定生效后的前5年内,越南对欧盟出口增长42.7%。农业、加工制造业、服务业等产业的产品出口大幅增长。欧盟承诺为越南39类农产品和食品实施地理标志保护,因此越南农产打入世界上最苛刻市场之门日益扩大。
工贸部肯定,除了越南驻欧盟及英国大使馆商务处之外,工贸部将竭尽全力向越南企业提供市场相关信息,为外国伙伴与越南企业实现对接起到桥梁作用,协助企业化解实施市场准入与运营过程中遇到的困难。同时选择有实力及渴望的企业以促与越南企业与他们实现对接。
主动创造通行证
工贸部多边贸易政策司司长梁黄泰表示,在Covid19疫情复发的背景下,EVFTA被视为救生衣,为越南企业打入更加丰富的市场并恢复增长势头带来机会。该协定的承诺预计将给商品出口额产生积极影响。如果EVFTA被誉为连接越南与欧盟的一条高速公路,确保产品质量及满足原产地原则就是越南企业拿到的通行证,以有效挖掘关税优惠待遇并提高在欧盟市场的竞争力。
梁黄泰先生建议,欧盟是重要出口市场,但贸易技术性壁垒太多。为了打入并有效挖掘该市场,生产商及出口企业要制定长期计划,加强把科技应用在耕作、收获与加工等环节之中。特别是要主动开展合作与对接,旨在构建大规模价值链,满足对货物数量及质量的要求。
对上述意见表示赞同时,越南高质量产品行业协会主席武金幸强调,质量与威信是越南商品尤其是越南农产品打入欧盟市场的通行证。为了确保农产品质量及其达到欧盟市场标准,应同步地解决各个问题,从生产商的认识到农业发展的战略。这不仅是企业的责任,而是农民的责任并需要国家的引导及协助。管理机构不仅制定主张与战略,而且要敦促企业开展与监督实施进度与结果。
许多行内专家强调越南在欧盟享受的竞争优势不是永远的,许多其他国家将同欧盟谈判自贸协定以挖掘该市场的潜力。因此,整个政治体系及企业界应及时有效配合利用这个黄金阶段——EVFTA生效之后来加强出口,巩固越南商品在欧盟市场上的地位。
最近召开的EVFTA落实计划开展会议上,工贸部部长陈俊英认为,这是政府第一次同步、全面地举行吸引所有有关部门机构及各地方代表参加的会议,旨在讨论与贯彻自贸协定实施措施。这是政府、各部门机构与企业同行并肩的明显证明。重要的是我们应改变政策制定思路,即以企业为中心,以国际准则为测量器。这条高速公路开通后并为车辆顺利流通做好准备后,我们应坚韧不拔参加EVFTA

Đọc thêm...

Vững vàng tâm thế tham gia EVFTA

01:57 |

Nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam cho biết, đã sẵn sàng chuyển những lô hàng đầu tiên sang thị trường Liên hiệp châu Âu (EU) với thuế suất 0%. Đó là tâm thế vững vàng cho “cuộc đua” trên “tuyến cao tốc” Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên, để DN có thể tận dụng tốt những cơ hội mà EVFTA tạo ra còn nhiều vấn đề cần bàn thảo.
Là một trong những DN chuyên xuất khẩu (XK) gạo chất lượng cao sang thị trường EU, kinh nghiệm và cách làm đã có, vì vậy Công ty CP nông nghiệp công nghệ cao Trung An không lạ lẫm với câu hỏi làm thế nào để gạo XK vào EU.
Theo ông Phạm Thái Bình, Giám đốc Công ty CP nông nghiệp công nghệ cao Trung An, DN đang gấp rút hoàn tất các thủ tục để XK lô gạo đầu tiên sang EU với thuế suất ưu đãi bằng 0%. Trước đây phải chịu thuế suất cao mà gạo Việt Nam vẫn bán được ở thị trường này, giờ chẳng có lý do nào cản đường DN Việt Nam. Dự báo, XK gạo Việt Nam sang EU sẽ tăng trong thời gian tới. Gạo của DN đã được XK sang EU dưới tên của chính DN thay vì phải gắn tên của DN nước ngoài như lâu nay.
Ông Phạm Thái Bình cho biết, DN đã đàm phán với các đối tác nước ngoài để nguyên bao bì của Trung An, cuối cùng người ta chấp nhận vì gạo chất lượng tốt. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận vị thế gạo Việt Nam ở thị trường EU sẽ được tăng lên nhờ EVFTA. EVFTA đã có hiệu lực từ ngày 1-8, cơ hội cho gạo Việt Nam là rất lớn. Ngoài vấn đề được hưởng thuế suất bằng 0%, chúng ta còn phải tập trung xây dựng đẳng cấp gạo Việt Nam. Ý nghĩa hưởng lợi thuế là một phần, nhưng phần quan trọng hơn đó là xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Tuy nhiên, để tiếp cận được thị trường EU, các DN XK gạo Việt Nam cần phải xây dựng vùng nguyên liệu, bảo đảm sản phẩm sản xuất ra phải sạch, chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi DN phải có một số vốn lớn để mua lúa của nông dân. Nếu không xây dựng vùng nguyên liệu, không có hàng XK vào EU.
Tương tự, ông Trần Việt Cường, Tổng Giám đốc Công ty sản xuất và phân phối Ca-cao Đồng Nai cho rằng, thuận lợi lớn nhất mà EVFTA đem tới là tốc độ giảm thuế quan rất nhanh. Những cơ hội kinh doanh đang mở ra với điều kiện là DN phải biết nắm bắt, triển khai nhanh, tận dụng đẩy mạnh XK. Hiện, DN đang xây dựng một kế hoạch nhanh chóng đẩy mạnh XK sang thị trường EU. Tuy nhiên, điều lo lắng nhất hiện nay là vấn đề truy xuất nguồn gốc. Thực tế lâu nay, Việt Nam có lợi thế trồng, phát triển cây ca-cao. Ca-cao Việt Nam ngon, chất lượng tốt, nhưng chưa phát triển được vì thiếu sự chuyên canh, quy hoạch vùng trồng. Nếu chúng ta đi từ gốc, giải quyết được những vấn đề trên, nông sản Việt Nam chắc chắn không thua bất kỳ nước nào.
Dệt may cũng là một trong những ngành được đánh giá hưởng lợi lớn nhất khi EVFTA chính thức có hiệu lực, nhưng nhiều DN dệt may chưa thể tận dụng ngay cơ hội khi nhu cầu tiêu dùng ở thị trường EU sụt giảm do Covid-19.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty May Hưng Yên, vấn đề quy tắc xuất xứ (QTXX) luôn là điểm yếu của các DN Việt Nam. Các DN dệt may phải đáp ứng được QTXX từ vải trở đi, nhưng thực tế cho thấy từ trước đến nay chúng ta bị thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung nguyên phụ liệu, phải nhập khẩu (NK) chủ yếu từ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa, sản phẩm không đáp ứng QTXX, không được hưởng ưu đãi về thuế quan. Hơn ai hết, DN dệt may hiểu rõ bất lợi trên. Tuy nhiên, NK nguyên phụ liệu từ Trung Quốc rất rẻ nên nhiều khi lợi thế trên lại lớn hơn ưu đãi thuế quan. Dẫn tới, các DN chấp nhận mất lợi thế cạnh tranh về thuế thay vì chuyển đổi nguồn gốc NK nguyên phụ liệu.
Các DN dệt may tiếp tục kiến nghị Nhà nước cần có định hướng cho các công ty nước ngoài đầu tư vào sản xuất vải, dệt nhuộm hoàn tất cũng như đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp tập trung, trọng điểm để phát triển vùng nguyên liệu trong nước. Đây là điều kiện tiên quyết giúp các DN hưởng ưu đãi thuế quan.
Tương tự, ngành sản xuất, XK giày dép cũng chịu tác động tiêu cực do tác động của dịch Covid-19. Kim ngạch XK giày dép các loại bảy tháng năm 2020 ước đạt 9,53 tỷ USD, giảm 7,9% so cùng kỳ năm 2019. Hiện EU là thị trường truyền thống của ngành da giày Việt Nam, chiếm tới gần 30% kim ngạch XK, khoảng gần sáu tỷ USD mỗi năm. Với việc EVFTA có hiệu lực, ngành da giày kỳ vọng XK giày dép trong quý III và quý IV - 2020 sẽ tăng trưởng trở lại, giúp bù đắp thiệt hại trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, giống như ngành dệt may, QTXX vẫn đang là rào cản làm khó DN giày dép.
Theo đánh giá của Bộ Công thương, EVFTA được đưa vào thực thi đồng nghĩa cánh cổng bước vào thị trường 18.000 tỷ USD với 508 triệu dân đang mở rộng hơn bao giờ hết với hàng hóa của Việt Nam. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, XK của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% trong 5 năm đầu thực thi Hiệp định. Tăng trưởng XK đặc biệt lớn ở các ngành mà ta có thế mạnh như nhóm hàng nông sản, nhóm ngành chế biến - chế tạo và nhóm ngành dịch vụ. Cánh cửa vào thị trường khắt khe nhất thế giới cho ngành nông sản Việt Nam cũng ngày càng rộng mở với việc EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý cho các mặt hàng nông sản Việt Nam.
Bộ Công thương khẳng định, cùng với hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các nước EU và Vương quốc Anh, cơ quan này sẽ nỗ lực hết sức để hỗ trợ các DN Việt Nam về thông tin thị trường, làm cầu nối với các đối tác nước ngoài, hỗ trợ giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thâm nhập thị trường và kinh doanh. Đồng thời cũng sẽ lựa chọn những DN có thực lực, quyết tâm và khát vọng để kết nối đối tác với DN EU.
Theo ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương, trong bối cảnh dịch Covid-19 trở lại, EVFTA được coi là cứu cánh khi mang đến cơ hội cho DN với một thị trường đa dạng hơn, giúp DN lấy lại đà tăng trưởng hậu dịch bệnh. Các cam kết chính của Hiệp định được dự kiến sẽ có tác động tích cực đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa, bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho hàng nông sản, hải quan và thuận lợi thương mại. Nếu EVFTA được ví như “tuyến cao tốc” kết nối thương mại Việt Nam - EU thì chất lượng sản phẩm và đáp ứng QTXX chính là “giấy thông hành” để DN Việt Nam tận dụng hiệu quả ưu đãi về thuế quan, nâng cao khả năng cạnh tranh tại thị trường EU.
Ông Lương Hoàng Thái khuyến nghị, EU là thị trường XK quan trọng nhưng có nhiều rào cản kỹ thuật. Muốn tiếp cận và khai thác hiệu quả, người sản xuất và DN XK đều phải xây dựng kế hoạch dài hạn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào canh tác, thu hoạch lẫn chế biến. Đặc biệt phải chủ động hợp tác, liên kết để xây dựng chuỗi giá trị có quy mô lớn, đáp ứng được yêu cầu số lượng lẫn chất lượng hàng hóa.
Cùng quan điểm, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Hàng Việt Nam chất lượng cao nhấn mạnh, chất lượng và uy tín chính là “giấy thông hành” để hàng hóa, đặc biệt là nông sản Việt Nam có thể giam gia “cuộc đua” đến thị trường EU. Để có nông sản chất lượng, đạt tiêu chuẩn cần giải quyết đồng bộ các vấn đề, từ nhận thức của người sản xuất đến chiến lược phát triển của cả ngành nông nghiệp. Việc này không chỉ là trách nhiệm của DN, của những người nông dân mà cần sự định hướng và hỗ trợ từ cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cơ quan quản lý không chỉ đề ra chủ trương, chiến lược mà phải thúc đẩy triển khai trong thực tế và giám sát tiến độ, kết quả theo từng giai đoạn cụ thể.
Nhiều chuyên gia cũng nhấn mạnh, lợi thế so sánh cho Việt Nam tại EU sẽ không kéo dài mãi vì nhiều quốc gia khác cũng đã có những động thái tiến đến đàm phán thương mại tự do với EU để khai thác thị trường nhiều tiềm năng này. Do đó, cần sự tương tác kịp thời, hiệu quả của cả hệ thống chính trị với cộng đồng DN trong việc tận dụng “giai đoạn vàng” ngay khi EVFTA có hiệu lực để đẩy mạnh XK, củng cố vị thế của hàng Việt Nam ở thị trường EU.
Chủ trì phần thảo luận tại Hội nghị triển khai Kế hoạch thực thi EVFTA được tổ chức mới đây, Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh cho rằng, lần đầu tiên Chính phủ tổ chức riêng một hội nghị có sự tham dự đầy đủ của tất cả các bộ, ngành, cơ quan có liên quan và các địa phương để thảo luận, quán triệt các giải pháp, cách thức triển khai FTA một cách đồng bộ và toàn diện như vậy. Đây là minh chứng rõ nét cho việc đồng hành cùng DN của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi tư duy trong việc xây dựng chính sách từ cả ở cấp trung ương và địa phương, đó là lấy DN làm trọng tâm và lấy chuẩn mực quốc tế làm thước đo. Chúng ta vững vàng tâm thế tham gia EVFTA khi đã tự tin sẵn sàng thông xe cho “tuyến cao tốc” này để giúp cho các phương tiện lưu thông trên đó.

Đọc thêm...

越南外交:75年与民族风雨同行

21:59 |

(人民报)1945828日,胡志明主席签署关于成立越南民主共和国临时政府的命令,创立了越南现代外交事业。在发展75年间,在党的领导和胡志明主席的直接带领下,越南外交始终与民族风雨历程同行,报效祖国和人民。外交部门在祖国的发展征程上留下了深深的印迹,为争取和维护独立、推动抗战取得成功、统一祖国以及当今的国家建设保卫事业中作出了贡献。
1945年,在越南民主共和国成立后,在胡伯伯和党的老一辈领导同志英明领导下,外交部门在维护祖国独立以及捍卫年轻的革命政权所取得的成功,发挥了先锋作用。外交部门大胆而灵活的策略和决策,如“和以求进”、“分化敌人”以及“以不变应万变”、“ 把民族利益放在首位”等原则,已帮助越南革命摆脱了一个个“千钧一发”的困难处境。同时,外交部门还带头说服各国承认越南的和平与独立。
在抵御法国殖民主义和美帝国主义的抗战中,越南革命外交事业成为了具有战略意义的重要阵线和革命路线的重要组成部分,与军事阵线一起推动抗战走向胜利。外交部门已率先推动创建一个支持解放民族、统一祖国事业的国际阵线。外交部门高举和平、民族独立旗帜,坚持政治斗争与法理斗争相结合,争取了苏联、中国和各兄弟社会主义国家的支持,同各民族主义国家扩大关系,形成了世界人民支持越南人民正义事业的阵线。因此,与战场上的胜利一起,促使法国殖民主义和美帝国主义坐到了结束战争的谈判桌上。外交部门在1954年日内瓦和1973年巴黎谈判桌上的胜利,是争取民族独立和国家统一征程上重要的里程碑。
在国家重建事业中,外交是在为推动越南摆脱政治上被孤立、经济上遭封锁和禁运的困难而斗争过程中的核心、先锋力量。同时,外交部门已积极参与处理越南与邻国、大国之间存在的问题,使得越南对外关系迎来突破,包括促成柬埔寨问题的解决方案以及与邻国、大国关系正常化。
越南革命外交在胡伯伯和党的老一辈领导人带领下的光辉历程,有助于确立越南外交的特色、风范和方法。从“以不变应万变”、”独立自主”、”把民族利益放在首位”等原则到“多交友少树敌”方针和争取时机、创建时机、统筹民族力量与时代力量和攻心外交等方法,成为了富有浓郁胡志明风格的革命外交的经典的、宝贵的经验,迄今仍保留原有价值。
在革新和广泛融入国际社会的时期,对外工作任务是继续为推进经济社会发展、国家工业化现代化和祖国建设保卫事业创建有利的国际环境和条件,同时为世界人民致力于和平、民族独立、民主和社会进步的斗争作出积极贡献。继承上一时期对外工作基础和经验,外交部门发挥了先锋作用,为发展和推动越南与世界各个国家和地区关系走深走实,开拓新市场、新合作领域铺平道路,为经济社会发展吸引各种资源,助力保持和平稳定环境,捍卫主权和领土完整并提升国家的国际地位。
外交部门已为扩大并推动越南与各国外交关系走向深入作出重要贡献。迄今,越南已同联合国193个会员国中的189个国家建立外交关系;同30个战略伙伴和全面伙伴确立长期稳定的关系,为越南同各国一起提升合作水平、推动各国利益和地区乃至世界的和平、合作与发展打下坚实基础。努力实施积极主动融入国际社会的战略部署,外交部门已就促进越南成为许多地区和全球经济一体化机制的重要环节的举措和战略步骤向党和政府提供了参谋,促成了《跨太平洋伙伴关系全面进步协定》和《越南与欧盟自由贸易协定》等多项重要自贸协定签署,从而为发展注入巨大动力。此外,外交部门密切协同各部门、行业,推动国防安全、社会文化、科学技术等领域的国际融入。
多边外交快速成长并取得重要成就,肯定了越南作为国际社会负责任的一员的地位。不仅在成功担任多项国际重任,特别是1997年法语国家峰会,1998年、2010年、2020年东盟峰会,2006年、2017年亚太经合组织领导人非正式会议的东道主中发挥核心作用,外交部门还积极主动提出许多构想和倡议,推动处理地区和世界的共同事务。值得一提的是,越南外交部门还为在河内召开的第二次美朝峰会作出重要贡献,从而推动朝鲜半岛的对话、和解与和平,受到各伙伴和国际社会高度评价。越南加入大多数国际组织和论坛,特别是东盟、亚欧会议、亚太经合组织、联合国、七国集团、二十国集团等,并作出积极贡献。
外交同国防安全一道,有效支持牢牢捍卫祖国的主权、领土完整,包括努力同老挝、柬埔寨和中国进行谈判,携手共建和平友好发展的陆地边界。外交密切协同国防安全,在保卫祖国事业中“未雨绸缪,防患未然”,特别是在捍卫越南在东海的主权和主权权利的斗争中。
在发展过程中,外交日益紧密地联系民众、地方和企业。许多务实的经济外交活动得以展开,从而帮助企业拓展市场、实现与伙伴对接。文化外交致力于推广一个富有特色且成功革新的越南形象,同时积极开展工作,促进39项越南遗产被列入联合国教科文组织的世界文化遗产名录,从而为人类的各种价值保护工作作出贡献,同时为多个地方的发展创造资源。外交部门也积极有效开展公民保护工作和海外越南人事务。
坚持独立自主、把国家民族利益放在首位等基本原则,越南外交部门始终与“对外诸兵种”,如党和国会的对外交往、民间交流、国防安全和各部门、地方的对外交流携手并肩,有效开展对外交往和融入国际工作,为最好服务国家的利益、提高越南地位这一共同目标而努力奋斗。外交人员队伍不断发展壮大,从成立初期的20名干部发展到了由数千名日益专业精干的、政治本领坚定、业务精湛的干部组成的队伍。驻外机构网络从最初的三家驻外外交代表机构增加到了遍布各大洲的94家机构。
巧妙运用民族解放斗争和战后国家重建时期的外交经验,革新时期外交也总结出许多宝贵经验。那就是关于同周边国家建立和发展长期友好合作关系、关心灵活处理对大国关系、经常密切协同“对外诸兵种”、发挥民族的“软实力”以提高国家的国际地位和作用的经验。
世界将要步入21世纪的第三个十年,迎来深刻、快速而难以预测的变化。和平、合作与发展依然是世界各民族的共同愿望,但正遭遇诸多挑战,特别是世界经济衰退、大国战略竞争以及流行病、环境、气候变化、水资源安全等传统和非传统安全挑战。新冠肺炎疫情导致国际局面变化加快,以交织并存的机遇和挑战对越南的安全和发展环境产生着多方面的直接影响。
在新背景下,外交部门继续在为发展和提高国家地位营造有利的和平环境中发挥先锋作用。在传承越南外交传统和胡志明外交思想的基础上持续建设人员队伍、运作内容和方式上现代化的外交事业,越南外交部门应积极主动发扬改革创新精神,灵活适应形势的快速变化,着力完成新时期的任务。
凭着国家的新地位、新实力,弘扬75年来的光辉传统和巨大成就以及外交与国家风雨历程同行、尽心尽力报效祖国、服务人民的精神,越南外交在党的领导下继续稳步前行,续写现代外交事业的辉煌历史,为越南社会主义祖国建设与保卫事业作出应有贡献。(完)
作者:越共中央政治局委员、政府副总理兼外交部长范平明

Đọc thêm...

Ngoại giao Việt Nam: 75 năm đồng hành cùng dân tộc

21:48 |

Ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trong 75 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoại giao in đậm dấu ấn trên những chặng đường của đất nước, góp phần giành và giữ vững độc lập, đóng góp trong công cuộc kháng chiến thành công, thống nhất đất nước và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945), dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng tiền bối, ngoại giao đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà và bảo vệ thành công chính quyền cách mạng còn non trẻ. Những sách lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của ngoại giao, như “hòa để tiến”, “phân hóa kẻ thù”, cùng các nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”…, đã giúp cách mạng nước ta vượt qua được những tình huống hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời, ngoại giao đã đi đầu trong việc vận động các nước công nhận nền hòa bình và độc lập của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách mạng, sát cánh cùng mặt trận quân sự để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi. Ngoại giao đã đi tiên phong trong việc tạo ra một mặt trận quốc tế, ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngoại giao giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, kiên trì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh pháp lý, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Nhờ đó và cùng với thắng lợi trên chiến trường, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Chiến thắng của ngoại giao trên bàn đàm phán ở Giơ-ne-vơ năm 1954 và ở Pa-ri năm 1973 là những dấu mốc quan trọng trên chặng đường giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
 Trong công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước, ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh đưa đất nước ta thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế. Đồng thời, ngoại giao đã tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam với các nước láng giềng, nước lớn, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của nước ta, trong đó có giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia và bình thường hóa quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn.
Những chặng đường vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam được Bác Hồ và các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng dẫn dắt, góp phần định hình bản sắc, phong thái, phương pháp của ngoại giao Việt Nam. Từ nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “độc lập, tự chủ”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu” đến phương châm “thêm bạn, bớt thù” và phương pháp ngoại giao tâm công, tranh thủ thời cơ, kiến tạo thời cơ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tất cả đã trở thành những bài học kinh điển, vô giá về ngoại giao cách mạng mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiệm vụ đối ngoại đặt ra là tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở kế thừa nền tảng và kinh nghiệm đối ngoại của thời kỳ trước, ngoại giao đóng vai trò tiên phong, mở đường, phát triển và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu, mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác mới, thu hút các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng và đưa vào chiều sâu quan hệ đối ngoại của ta với các nước. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Nỗ lực triển khai định hướng chiến lược tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, ngành ngoại giao đã tham mưu cho Đảng và Chính phủ các biện pháp, bước đi chiến lược đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng như CPTPP, EVFTA..., qua đó tạo động lực to lớn cho phát triển. Bên cạnh đó, ngành ngoại giao tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành thúc đẩy hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực an ninh - quốc phòng, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ...
Ngoại giao đa phương trưởng thành mạnh mẽ và đạt những thành tựu quan trọng, khẳng định Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ góp phần nòng cốt trong việc tổ chức thành công nhiều trọng trách quốc tế lớn, nhất là chủ nhà của Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (năm 1997), ASEAN (các năm 1998, 2010, 2020), ASEM (năm 2005), APEC (các năm 2006, 2017), ngoại giao còn chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, góp phần giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoại giao Việt Nam đóng góp quan trọng trong việc tổ chức Hội nghị cấp cao Hoa Kỳ - Triều Tiên lần hai tại Hà Nội, qua đó thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Việt Nam tham gia, đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, G7, G20...
 Ngoại giao cùng quốc phòng - an ninh góp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có nỗ lực đàm phán, xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát triển với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với quốc phòng và an ninh trong công cuộc “giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa nguy”, nhất là đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của nước ta ở Biển Đông.
Trong quá trình phát triển, ngoại giao ngày càng gắn kết với người dân, các địa phương và doanh nghiệp. Nhiều hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực được triển khai, góp phần mở rộng thị trường, đối tác cho doanh nghiệp. Ngoại giao văn hóa quảng bá hình ảnh Việt Nam giàu bản sắc, đổi mới thành công; đồng thời vận động để đến nay 39 di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, qua đó vừa đóng góp cho việc bảo vệ các giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực cho phát triển ở nhiều địa phương. Ngành ngoại giao cũng triển khai tích cực, hiệu quả công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Kiên định nguyên tắc cơ bản là độc lập, tự chủ, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc lên trên hết, ngoại giao luôn sát cánh cùng các “binh chủng đối ngoại”, như đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng - an ninh và đối ngoại của từng bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, cùng phấn đấu vì mục tiêu chung là phục vụ tốt nhất các lợi ích của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam. Lực lượng cán bộ ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh, từ 20 cán bộ trong những ngày đầu thành lập đã phát triển thành đội ngũ hàng nghìn cán bộ ngày càng chuyên nghiệp, tinh nhuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ. Từ chỗ chỉ có ba cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, đến nay mạng lưới các cơ quan đại diện đã mở rộng lên 94 cơ quan, ở khắp các châu lục.
Vận dụng khéo léo những bài học ngoại giao của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngoại giao thời kỳ đổi mới đã đúc rút nhiều bài học quý giá. Đó là các bài học về xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với các nước láng giềng, quan tâm xử lý khôn khéo quan hệ với các nước lớn, phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các “binh chủng đối ngoại”, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc để nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của đất nước.
Thế giới đang chuẩn bị bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ 21, với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng của các dân tộc trên thế giới, song đang gặp nhiều thách thức, nhất là tình trạng kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước. Đại dịch Covid-19 khiến biến động cục diện quốc tế bị đẩy nhanh hơn, tác động trực tiếp, nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam, với thời cơ và thách thức đan xen.
Trong bối cảnh mới, ngành ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò tiên phong tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Tiếp tục xây dựng nền ngoại giao hiện đại cả về lực lượng, nội dung và phương thức hoạt động, trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao Việt Nam và tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, ngành ngoại giao cần chủ động, tích cực thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, năng động thích ứng những chuyển biến nhanh của tình hình, để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Với thế và lực mới của đất nước, phát huy truyền thống vẻ vang và thành tựu to lớn trong 75 năm qua, tiếp bước tinh thần ngoại giao đồng hành cùng đất nước, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam tiếp tục vững bước tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao hiện đại, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PHẠM BÌNH MINH Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao


Đọc thêm...

东盟2020:加强区内力量,提高东盟经济体的角色

01:53 |

(人民报)2020年是一个非常特殊的年头,因为我们要应对Covid-19疫情,其中防疫措施已经给经济发展造成负面影响,所以我们应突出新优先事项并把其纳入2020东盟主席年的行动计划之中。首先是供应链被中断,导致东盟大多数国家遭受严重影响。原因在于东盟各成员国都是以出口为导向并多依赖于用于生产出口到大型市场的产品的外国原材料及辅助工业产品之国。此外,防疫措施的限制给商品及服务商业流通产生影响,而上述商品及服务对人生及防疫工作非常重要。因此,东盟各国应采取措施进一步增强经济体的抵抗力及对新形势的应付能力。
作为2020东盟轮值主席国,越南主动积极配合东盟其他成员国及东盟秘书处制定并为峰会、东盟与日中韩三国和其他伙伴国的合作机制补充新内容,旨在确保防疫目标及要求并为东盟经济发展提供顺利。
2020年的目标是把至2025年东盟经济共同体战略等长期目标与由越南制定并获得东盟通过的13项重要倡议相结合。特别是,应实现短期目标,以化解东盟经济体正要面对的困难。上述内容在20204月召开的东盟领导人会议或者东盟经济部长会议、东盟加三经济部长会议、东盟-韩国经济部长会议等会议议程中得以充分的体现。不仅如此,提出行动计划尤其是东盟各国领导人发表有关应对Covid-19疫情以及有关加强防疫工作的东盟经济部长会议宣言具有重要意义。
越南已经主动研究、制定并把上述倡议提交东盟经济部长会议以应对Covid-19疫情。此外,东盟经济部长与韩国经济部长发表的联合声明强调加强东盟各国及韩国都参加的供应链中的互联互通等。述内容都由越南主动研究与配合东盟其他国家及东盟秘书处制定与提出,其中各国都对越南提出的倡议及内容表示高度同意。与此同时,在电子政府信息技术应用的基础上进一步加强数字化转型进程被视为河内行动计划开展的重要基础并赢得各国职能机构的高度响应。
值得注意的是,在所提出的132020年优先合作倡议之中,“东盟数字一体化指数”、“东盟创新中心对接的参照条款”等两项在第52届东盟经济部长视频会议(AEM-52)上得以完成。其他倡议及优先事项正在讨论之中并按照2020年既定目标得以积极落实开展。越南同时积极同其他成员国及各伙伴国促进处理好区域全面经济伙伴关系协定(RCEP)谈判过程中存在的问题。
完成各项经济倡议及优先事项将为巩固、加强区内力量,提高东盟经济共同体的角色做出重要贡献,同时有助于东盟主动应对未来非传统挑战。越南同时为成立东盟高级工作小组提出重要建议,旨在研究与配合制定保障实现双重目标的措施。然而,要继续落实好把东盟各经济体回到新常态运转轨道。
可以说,高级工作组所提出覆盖着5个重要领域的建议为制定疫情过后东盟经济复苏与继续发展行动计划奠定重要基础。因此,越南主动、灵活与活跃地执行东盟轮值主席国任务是重要的。

Đọc thêm...

Tăng sức mạnh nội khối, nâng cao vai trò của Cộng đồng Kinh tế ASEAN

01:42 |

Năm 2020 là năm hết sức đặc biệt khi phải đối phó với dịch COVID-19, những tác động, biện pháp phòng chống dịch bệnh ảnh hưởng đến hoạt động phát triển kinh tế nên phải có nhiều ưu tiên mới, bổ sung vào trong chương trình hoạt động năm Chủ tịch ASEAN 2020. Đầu tiên là sự đứt gãy của các chuỗi cung ứng mà các nước trong ASEAN phần lớn bị tác động nặng nề bởi ASEAN đều những nước hướng về xuất khẩu có vai trò quan trọng trong các chuỗi cung ứng của khu vực và quốc tế và phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên nhiên liệu cũng như các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đầu vào để phục vụ cho các sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường lớn. Cùng đó là sự hạn chế của các biện pháp phòng, chống dịch bệnh đã tác động đến sự luân chuyển của các dòng sản phẩm, hàng hóa mà nhiều dòng sản phẩm này rất thiết yếu cho đời sống cũng như phục vụ phòng, chống dịch bệnh. Ngoài ra, việc luân chuyển của luồng di chuyển thể nhân và của các nguồn nhân lực; các thị trường xuất khẩu lớn đều bị tác động rất mạnh mẽ do phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Vì vậy, các nước ASEAN phải có giải pháp để tăng cường hơn khả năng chống chịu của nền kinh tế cũng như khả năng ứng phó với tình hình mới.
Với vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã rất chủ động và tích cực phối hợp với các nước thành viên và Ban Thư ký ASEAN để xây dựng hàng loạt nội dung mới, bổ sung cho các Hội nghị cấp cao, các cơ chế hợp tác giữa nước ASEAN với 3 nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc (ASEAN+3) và các đối tác khác để đảm bảo được mục tiêu và yêu cầu trong việc đối phó với dịch bệnh cũng như tạo thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế ASEAN. Mục tiêu trong năm 2020 là kết hợp giữa những mục tiêu dài hạn, bao gồm chiến lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN hướng tới năm 2025 với 13 sáng kiến quan trọng mà Việt Nam xây dựng đã được thông qua trong khuôn khổ hợp tác của ASEAN. Đặc biệt, cần đạt được những mục tiêu ngắn hạn để giúp giải quyết những khó khăn trước mắt của nền kinh tế ASEAN, tác động đến các doanh nghiệp mà phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tất cả những nội dung này đã được thể hiện rất đầy đủ trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao của các nhà lãnh đạo ASEAN diễn ra vào tháng 4/2020 hay các Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế của ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN+3, Hội nghị của Bộ trưởng Kinh tế ASEAN-Hàn Quốc.
Hơn nữa, việc đưa ra tuyên bố các chương trình hành động, quan trọng là các tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN trong việc ứng phó với dịch bệnh COVID-19 và Tuyên bố của các Bộ trưởng kinh tế ASEAN nhằm tăng cường ứng phó với dịch bệnh. Cụ thể như Kế hoạch hành động Hà Nội, Tuyên bố chung của Bộ trưởng Kinh tế các nước ASEAN, Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Hàn Quốc về tăng cường kết nối và duy trì, khôi phục các chuỗi cung ứng. Gần đây nhất, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN đã cơ bản thông qua chương trình dài hạn trong các hoạt động khôi phục kinh tế ASEAN với những giải pháp để thực hiện những mục tiêu đã được đề cập tới.
Với những sáng kiến này, Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, đề xuất và đưa ra trong nội dung của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN để ứng phó với dịch COVID-19. Ngoài ra, trong Tuyên bố chung của giữa Bộ trưởng Kinh tế ASEAN với Bộ trưởng Kinh tế Hàn Quốc tăng cường tính kết nối chuỗi cung ứng mà các nước ASEAN và Hàn Quốc cùng tham gia; phục vụ cho Hội nghị cấp cao của các nhà lãnh đạo của ASEAN trong Tuyên bố chung về phòng, chống dịch và ứng phó với COVID-19. Tất cả những nội hàm lớn trong khuôn khổ đó đều do Việt Nam chủ động nghiên cứu và phối hợp với các nước ASEAN và Ban Thư ký ASEAN để thống nhất đề xuất; trong đó, các nước đều thống nhất cao những sáng kiến, nội dung mà Việt Nam đưa ra. Bên cạnh đó, việc tiếp tục tăng cường hơn nữa chuyển đổi số và dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin chính phủ điện tử được coi như là nền tảng quan trọng của Chương trình hành động Hà Nội cũng nhận được sự hưởng ứng và ủng hộ rất cao của các cơ quan chức năng các nước khi triển khai thực hiện.
Đáng lưu ý, trong số 13 sáng kiến, ưu tiên về hợp tác kinh tế mà Việt Nam đưa ra trong năm 2020, 2 sáng kiến “Xây dựng Chỉ số Hội nhập số ASEAN” và “Kết nối các trung tâm đổi mới sáng tạo ASEAN” đã được hoàn thành tại thời điểm diễn ra Hội nghị AEM lần thứ 52. Các sáng kiến, ưu tiên khác vẫn đang tiếp tục được đã thảo luận và tích cực triển khai theo mục tiêu đề ra trong năm 2020. Việt Nam cũng tích cực cùng với các nước ASEAN khác và các nước đối tác thúc đẩy việc xử lý nốt những vấn đề còn tồn đọng trong đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) - một trong những ưu tiên hợp tác kinh tế của Năm Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam.
Việc hoàn thành các sáng kiến, ưu tiên kinh tế sẽ góp phần quan trọng củng cố, tăng cường sức mạnh nội khối, nâng cao vai trò của Cộng đồng Kinh tế ASEAN; đồng thời, giúp ASEAN chủ động ứng phó với các thách thức phi truyền thống trong tương lai.
Việt Nam cũng đã đưa ra được những khuyến nghị quan trọng trong thành lập nhóm đặc trách cấp cao của ASEAN để nghiên cứu, phối hợp xây dựng các biện pháp đảm bảo mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh, ứng phó có hiệu quả với dịch COVID-19.
 Thế nhưng, phải tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu đưa các nền kinh tế ASEAN trở về trạng thái bình thường mới thông qua tăng cường hợp tác và kết nối kể cả trong nội khối cũng như với các đối tác bên ngoài để đảm bảo được những yêu cầu của mục tiêu kép.
Có thể nói, những kiến nghị của nhóm đặc trách cấp cao, với 5 lĩnh vực lớn đã tạo nền tảng rất quan trọng để xây dựng chương trình hành động phục hồi và tiếp tục phát triển kinh tế ASEAN sau dịch COVID-19. Vì vậy, sự chủ động, linh hoạt và năng động của Việt Nam trong việc đảm bảo vai trò của Chủ tịch ASEAN là rất tích cực.


Đọc thêm...

湄公河-澜沧江合作促进建设繁荣的湄公河地区

06:39 |

 (VOV) - 湄公河-澜沧江合作第三次领导人会议824日以视频方式举行。越南、柬埔寨、老挝、缅甸、泰国和中国等6个流域国家参加了会议。本次会议在湄公河-澜沧江合作机制形成和发展五周年之际举行,为区域合作指明了重要方向。
2012年,泰国提出六个流域国家举办湄公河-澜沧江合作会议的设想。在湄公河次区域现有的十多项合作机制中,湄公河-澜沧江合作机制具有巨大优势。越南、柬埔寨、老挝、缅甸、泰国和中国等6个湄澜流域国家参与该机制。
湄公河-澜沧江合作第三次领导人会议是六国高层领导人讨论区域主要问题,应对共同挑战的重要机会。
各国领导人回顾了湄公河-澜沧江机制从建立到现在的整个合作过程,对政治、经济和文化合作等三大支柱的进展表示高度赞赏。该合作机制给参与国家、人民和企业带来巨大利益。
外交部常务副部长裴青山说:“各国领导人审视了湄公河-澜沧江特别基金框架内的所有合作。这些合作项目的投资额约3亿美元。过去期间,许多合作项目得到开展。会议也制定今后的合作计划,并集中于水资源管理、农业领域合作、促进湄公河国家的农产品对中国出口、教育培训合作等领域。”
与此同时,各成员国将加强新冠肺炎医疗合作;确保域内生产活动和供应链稳定;保持经济增长势头;继续推动可持续发展,胜利实现2030年可持续发展目标;促进湄公河流域在教育培训和人力资源转化方面的合作。
会议还用大量时间讨论湄公河水资源管理方面的合作。各国领导人就2019-2020年湄公河流域严重干旱问题进行讨论,同意加强湄公河水资源管理和可持续利用合作。
自该机制建立以来,作为可靠的伙伴和国际社会负责任的成员,越南一直主动参与并为湄公河-澜沧江合作做出贡献。在本次会议上,本着建设性与合作精神,越南各部门积极参与文件起草过程。
裴青山说:“阮春福总理在本次会议上提出两个建议。一是,加强新冠肺炎疫情应对合作。二是加强水文研究和水电建设数据共享中心的合作,从而减轻气候变化造成的负面影响。这些建议受到湄公河流域国家领导人的高度评价。”
阮春福总理和与会领导人还讨论了影响本地区可持续发展的重大问题及其解决措施。
可以肯定的是,湄公河-澜沧江合作不仅在水资源管理方面而且在其他合作领域中都发挥着积极作用。如何保持合作势头一直是多边机制的挑战,需要所有成员国的努力。越南一向强调,该合作机制要注重务实合作,推动次区域的核心问题,特别是水资源安全形成积极的转变,促进各成员国的可持续和平衡发展。

Đọc thêm...

Hot (焦点)