Home » biendao
Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013
Vai trò của ASEAN trong giải quyết tranh chấp Biển Đông (Phần I)
Biển Đông là biển lớn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với độ sâu trung bình là 1.464m. Thềm lục địa Biển Đông có độ sâu trầm tích tới khoảng từ 6.000 - 7000m, thuộc hệ nham thạch có khả năng chứa dầu với tiềm năng lớn và chất lượng cao.
Về kinh tế và địa chính trị: Đây là vùng biển có vị trí địa chính trị quan trọng, là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa án ngữ ở khu vực trung tâm Biển Đông, có vị trí chiến lược quan trọng và có thể kiểm soát được toàn bộ 5 trong 10 tuyến đường biển chủ yếu của thế giới. Biển Đông có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, phốt phát và nhiều khoáng sản quý hiếm. Theo những nghiên cứu do sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippines, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái của trái đất.
Về An ninh - Quốc phòng: Biển Đông có 4 eo biển: Malacca, Lombok, Sunda và Ombai trong 16 eo biển có mực nước sâu tự nhiên trên thế giới, thuận lợi cho việc triển khai các loại tầu ngầm hạt nhân chiến lược có thể tiếp cận mục tiêu tiến công bất ngờ. Vùng biển sâu xung quanh quần đảo Trường Sa có thể xây dựng thành các căn cứ cho tầu ngầm trọng tải hàng vạn tấn. Các chuyên gia quân sự của Mỹ cho rằng, nếu bố trí được tầu ngầm hạt nhân tại khu vực Trường Sa thì có thể khống chế được khu vực bán kính 4.000km. Có chiến lược gia khẳng định: “Trong tương lai, thế lực nào khống chế vùng biển này thì thế lực đó sẽ khống chế cả khu vực Đông Nam Á”.
Vì vậy, ASEAN có những lý do chiến lược để tham gia lâu dài ở cấp độ cao trong việc quản lý căng thẳng ở Biển Đông. Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của các thành viên Hiệp hội. Biển Đông - một trong những tuyến hàng hải thương mại đông đúc nhất thế giới được bao quanh phần lớn là bởi các nước Đông Nam Á. Thêm vào đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu tiềm năng ở Biển Đông khiến cho vùng biển này càng quan trọng hơn, cả về kinh tế và chiến lược. Do đó, duy trì an ninh và ổn định trong khu vực này không chỉ quan trọng đối với các nước ASEAN mà cả toàn khu vực.
Trong số 6 nước 7 bên có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông, thì có 5 nước ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Các nước khác như Singapore, Thái Lan và Campuchia cũng là những nước nằm trên bờ Biển Đông đều chia sẻ lợi ích to lớn về kinh tế và chiến lược nhất là trong tự do thương mại và an ninh quốc phòng. Ngay cả Myanmar nước không nằm trên bờ Biển Đông nhưng Biển Đông là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho nước này trong phát triển quan hệ với các nước trên bờ Thái Bình Dương, đặc biệt sau khi tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng đi vào hoạt động thì lợi ích của Myanmar sẽ được nhân lên nhiều lần. Các nước không có biển như Lào cũng sẽ được hưởng lợi lớn trong sử dụng lợi thế chiến lược của Biển Đông.
Như vậy, tranh chấp Biển Đông leo thang không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia của các nước ASEAN có chủ quyền ở vùng biển này, mà còn làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của ASEAN, nhất là quan hệ của ASEAN với các đối tác bên ngoài, trước hết là với Trung Quốc.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là ASEAN đang nỗ lực hiện thực hóa cộng đồng của mình, trong đó có Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) vào 2015. Những nội dung và phương thức xây dựng APSC như “Xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử” và hợp tác, tìm kiếm và thiết lập các định chế để “Ngăn ngừa xung đột” trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài được xác định rõ trong Kế hoạch Hành động xây dựng cộng đồng ASEAN (ASC) năm 2004 và trong Kế hoạch Tổng thể APSC năm 2009. Như vậy, việc tham gia hòa giải mâu thuẫn, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN. Sự thiếu đoàn kết, nhất trí về một lập trường chung và phản ứng cầm chừng của ASEAN và một số nước thành viên trong việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết ở cấp độ khu vực và toàn cầu liên quan đến Biển Đông (như DOC, UNCLOS) cũng như chậm trễ soạn thảo và ban hành COC đã và đang cản trở lớn đến hiện thực hóa APSC.
Ngoài ra, việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương của mình ở Châu Á - Thái Bình Dương, nhất là vai trò của ASEAN trong ARF, EAS và ADMM+. Điều này sẽ làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và TQ. Đồng thời, việc này cũng làm tăng sức hút, sự hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Như vậy sự tham gia của ASEAN vào hòa giải mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông cùng một lúc đã đạt được hai mục đích. Một là, góp phần quan trọng hiện thực hóa APSC. Hai là, tránh cho ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy hay tâm điểm của cạnh tranh địa chính trị của các cường quốc, duy trì vai trò trung tâm của mình trong một cấu trúc khu vực mới đang hình thành. Hơn nữa, sự tham gia của ASEAN còn góp phần làm cho các nước lớn, trước hết là Mỹ và TQ giảm cạnh tranh chiến lược ở khu vực này, làm cho phần hợp tác cùng chia sẻ lợi ích giữa họ tăng lên. Điều này sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng, không bị các nước lớn lôi kéo vào vòng xoáy của cạnh tranh quyền lực. Có thể nói, sự tham gia trên đối với ASEAN vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này. (Còn nữa)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét