Home » biendao
Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014
Biển Đông cần lòng tin chiến lược hay hợp tác phát triển?
Liên quan
tới việc quản lý hiệu quả Biển Đông, có nhiều ý kiến khác nhau cho rằng hợp
tác sẽ giúp xây dựng lòng tin, trong khi ý kiến khác cho rằng hợp tác là khó
khả thi nếu thiếu lòng tin. Vậy, điều gì nên có trước, hợp tác như là một biện
pháp xây dựng niềm tin trên biển (MCBM) hay lòng tin chiến lược? Có quan điểm
cho rằng các thỏa thuận về hợp tác quản lý tài nguyên, nghiên cứu khoa học biển
và bảo vệ môi trường biển là những MCBM, nhưng điều này không thể thực hiện
được nếu thiếu lòng tin chiến lược.
Trung Quốc
hiện rất quan ngại về việc Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực,
trong đó có Biển Đông. Trung Quốc tự coi mình là mục tiêu của chiến lược này
và không tin tưởng bất kì sự bảo đảm nào của Washington, đồng thời nghi ngờ
sâu sắc các thương vụ vũ khí giữa Mỹ và Đài Loan cũng như các hoạt động thu
thập thông tin tình báo gần bờ biển nước này.
Tuy
nhiên, khi Trung Quốc thúc đẩy những đề xuất như Quỹ Hợp tác Hàng hải
ASEAN-Trung Quốc và việc thiết lập các ủy ban chuyên gia về nghiên cứu khoa học
biển, bảo vệ môi trường, cứu nạn và chống tội phạm xuyên quốc gia, thực chất
đó là những MCBM. Điều này khiến “quả bóng trách nhiệm” lăn trở lại phía các
nước ASEAN có tranh chấp. Nhưng vấn đề ở đây là phải có lòng tin nhất định
trước khi hợp tác. Lòng tin có thể là những nhượng bộ của Trung Quốc liên
quan tới tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, hoặc ít nhất thì nước này cần có giải
thích rõ ràng về những tuyên bố của mình.
Sự lẫn lộn
giữa hợp tác và lòng tin thể hiện ở việc trọng tâm đàm phán về Bộ Quy tắc ứng
xử Biển Đông (COC) đã thay đổi trong thập kỉ qua. Theo Tuyên bố về ứng xử các
bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002, hợp tác chỉ đến sau thỏa thuận dàn xếp
tranh chấp toàn diện và lâu dài. Năm 2004, nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc
về thực hiện DOC đã được thành lập với nhiệm vụ đưa ra những khuyến nghị để
thúc đẩy hợp tác. Tuy nhiên, văn bản Hướng dẫn thực hiện DOC được nhất trí
vào năm 2011 lại không đề cập cụ thể đến việc hợp tác quản lý trên biển. Thay
vào đó, văn bản này xác định MCBM là những hoạt động cần thực hiện trước tiên
song không xác định các biện pháp thực hiện cụ thể. Giờ đây, các cuộc đàm
phán đang hướng tới một COC có tính ràng buộc.
Trong bối
cảnh không rõ ràng hiện nay, các biện pháp bảo vệ môi trường thủy sinh, quản
lý nguồn cá, ngăn ngừa hải tặc xuyên quốc gia hay tiến hành công tác nghiên cứu
để quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên ở Biển Đông được triển khai không
nhiều. Các nước trong khu vực Biển Đông đều tham gia Công ước LHQ về luật biển
1982 (UNCLOS) và vì thế, theo Điều IX công ước này, các nước tham gia phải hợp
tác trong những hoạt động này.
Hợp tác
không chỉ là việc cần làm mà vừa là trách nhiệm và nhu cầu. Lòng tin được xem
là một điều kiện tiên quyết cho hợp tác. Không có hợp tác, nguồn cá sẽ bị
đánh bắt quá mức, môi trường thủy sinh bị hủy hoại, nguồn tài nguyên phong
phú tại Biển Đông sẽ không được thăm dò, các nước liên quan thiếu hiểu biết
khoa học cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh hải của mình. Tuy nhiên, hợp tác
hàng hải có thể bị cản trở nếu không thừa nhận sự gắn kết giữa các nước khi
khai thác tài nguyên biển và thực hiện quyền tài phán trên biển. Trong những
khu vực chồng lấn, lãnh hải và tài nguyên biển không thể được quản lý tốt khi
chỉ dựa trên quyền tài phán quốc gia. Hợp tác với các láng giềng là điều thiết
yếu để xây dựng trật tự hợp lý và quản lý biển hiệu quả.
Có thể những
rắc rối của tình hình hiện nay do sự khác biệt trong cách hiểu và lòng tin bị
mai một phần nào. Hợp tác hàng hải là một MCBM giúp xây dựng lòng tin, nhưng
phải có lòng tin mới có hợp tác. Hợp tác quản lý biển và các nguồn tài nguyên
trên biển cần phải được thúc đẩy ngay cả khi những bất đồng đang được thảo luận
ở cấp cao nhất và tranh chấp chủ quyền chưa được giải quyết. Yêu cầu đặt ra
là hợp tác quản lý Biển Đông và các nguồn tài nguyên biển cần phải được tách
khỏi những biện pháp xây dựng lòng tin quân sự và lòng tin chiến lược. Cần phải
nghĩ khác đi về hợp tác hàng hải, nên tách biệt giữa MCBM thông thường và
MCBM quân sự. Diễn đàn Hàng hải ASEAN Mở rộng (EAMF) rất thích hợp để phát
triển các mô hình hợp tác hàng hải, trong khi diễn đàn Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng ASEAN Mở rộng (ADMM+) lại có thể giải quyết những MCBM liên quan đến
các hoạt động quân sự./.
|
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét