Home » hoptacdoingoai
Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015
Tâm thế mới trong việc triển khai đối ngoại đa phương Việt Nam
Năm 2015 đang dần khép lại với nhiều thành tựu đối ngoại rất
quan trọng, trong đó đối ngoại đa phương được xem như một điểm nhấn. Với những
thành tựu của đối ngoại đa phương trong thời gian qua, chúng ta hoàn toàn tin
tưởng và có cơ sở cho việc nâng tầm đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời
gian tới.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa ngày càng tăng cũng như sự nổi
lên của các thách thức toàn cầu khiến tất cả các quốc gia từ lớn đến nhỏ đều cần
hợp tác với nhau để giải quyết những thách thức đó. Chính vì vậy, các khuôn khổ
đa phương là cơ chế thích hợp nhất để các nước phát huy khả năng hợp tác.
Xu thế đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế đang tạo cơ
hội cho các nước vừa và nhỏ có vai trò lớn hơn trong khuôn khổ đa phương. Với
nguồn lực hạn chế, các nước vừa và nhỏ khó có thể có tiếng nói bình đẳng thực sự
với các nước lớn nếu chỉ dựa vào kênh quan hệ song phương. Nhưng với các cơ chế
đa phương, chúng ta có thể nhân sức mạnh của mình lên nhiều lần khi chung sức,
đồng lòng với các đối tác có cùng quan điểm và lợi ích. Đối ngoại đa phương
chính là đòn bẩy giúp chúng ta phát huy “sức mạnh mềm,” từ đó nâng cao sức mạnh
tổng hợp để thúc đẩy và bảo đảm tối đa các lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nhìn lại lịch sử ngoại giao Việt Nam hiện đại, đối ngoại đa
phương đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng ngay từ buổi đầu
lập nước. Trong những năm đầu của cuộc trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ đã 9 lần gửi
thư cho Liên hợp quốc để tranh thủ vai trò của tổ chức quốc tế lớn nhất về ngoại
giao đa phương trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân ta. Suốt 70
năm qua, từ Hội nghị Geneve 1954 đến Hội nghị Paris 1973 cũng như trên nhiều diễn
đàn quan trọng khác, đối ngoại đa phương đã góp phần thiết yếu vào sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ các lợi ích an ninh và
phát triển, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Bước chuyển từ tư duy đến
hành động
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đánh dấu bước chuyển quan trọng
về tư duy đối ngoại. Chúng ta chủ trương “triển khai đồng bộ, toàn diện, có hiệu
quả các hoạt động đối ngoại” trên tất cả các kênh song phương và đa phương, dựa
trên sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại
Quốc hội và đối ngoại nhân dân.
Đại hội XI của Đảng cũng đề ra chủ trương “chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế” và đã được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị,
trong đó xác định “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần
xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến
tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi.”
Trong những năm qua, bám sát chủ trương đó, với thế và lực mới
của đất nước sau gần 30 năm Đổi mới, đối ngoại đa phương Việt Nam thực sự được
chắp cánh và nâng lên một tầm cao mới, góp phần giúp Việt Nam khẳng định được tầm
vóc và vị thế của mình trên bàn cờ chiến lược khu vực và quốc tế.
Đóng góp ý nghĩa-lợi
ích thiết thực
Chưa bao giờ đối ngoại đa phương Việt Nam lại gặt hái được
nhiều thành tựu nổi bật như những năm vừa qua. Đáng chú ý, Việt Nam đồng thời
được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu với số phiếu rất cao vào các cơ quan quan
trọng của Liên hợp quốc như Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2008-2009), Hội đồng Nhân
quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Hội đồng Kinh tế-Xã hội (ECOSOC) (nhiệm kỳ
2016-2018), Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) (nhiệm
kỳ 2013-2015), Ủy ban Di sản Thế giới (nhiệm kỳ 2013-2017) và Hội đồng Chấp
hành UNESCO (nhiệm kỳ 2015-2019). Không phải ngẫu nhiên mà khi thăm Việt Nam
tháng 5/2015,Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã khẳng định Việt Nam “có
thể là người đi tiên phong thực sự của Liên hợp quốc.”
Đặc biệt, Việt Nam đã và đang đi đầu trong việc cùng các nước
thành viên xây dựng Cộng đồng ASEAN và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN
trong cấu trúc khu vực đang định hình. Nhìn lại 20 năm qua, ngay sau khi gia nhập
ASEAN năm 1995, chúng ta đã tích cực thúc đẩy việc kết nạp Campuchia, Lào và
Myanmar, hiện thực hóa giấc mơ một ASEAN gồm 10 nước Đông Nam Á.
Mặc dù chặng đường Việt Nam tham gia ASEAN chỉ bằng non nửa lịch
sử của tổ chức này, nhưng Việt Nam đang là nước đạt tỷ lệ cao nhất trong việc
thực hiện các biện pháp xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Việt Nam trở thành cầu
nối gắn kết các nền kinh tế ASEAN lục địa với ASEAN hải đảo, thúc đẩy xu thế hợp
tác và liên kết giữa ASEAN với các đối tác, đưa ASEAN trở thành một tâm điểm
trong mạng lưới kinh tế-thương mại và liên kết ở châu Á-Thái Bình Dương.
Chúng ta đã và đang khẳng định vai trò là một hạt nhân tích cực
ở Đông Nam Á thúc đẩy đối thoại nhằm duy trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn
định ở Đông Nam Á, thực hiện nghiêm túc Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC), phấn đấu sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trên cơ sở
luật pháp quốc tế và các chuẩn mực chung, thể hiện đóng góp thiết thực và có
trách nhiệm của Việt Nam vào việc củng cố xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển
ở châu Á-Thái Bình Dương. Việc duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam
Á cũng chính là bảo đảm môi trường hòa bình, phục vụ mục tiêu phát triển của đất
nước.
Bên cạnh đó, cũng không thể không kể đến những sáng kiến mà
chúng ta đưa ra về giảm nhẹ rủi ro thiên tai, quản lý và sử dụng bền vững nguồn
nước tại các cơ chế, diễn đàn khu vực và tiểu vùng như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), các cơ chế hợp tác
tiểu vùng Mekong và giữa Mekong với các đối tác. Những sáng kiến, đề xuất này
đã góp phần ứng phó hiệu quả với các thách thức ở khu vực, đem lại lợi ích thiết
thực cho người dân trong toàn khu vực.
Điều thú vị là khác với các giai đoạn trước, những năm qua chứng
kiến các hoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam được mở rộng và đi vào chiều
sâu ở tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội
và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Với tầm vóc mới mà đối ngoại
đa phương Việt Nam đạt được, chúng ta đã được bạn bè quốc tế tín nhiệm, đăng
cai nhiều hội nghị quan trọng có tầm cỡ khu vực và toàn cầu như Cuộc họp lần thứ
19 Ủy ban Thường trực của Hội nghị Quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP)
(4/2013), Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132 (4/2015)
và Hội nghị cấp cao APEC năm 2017.
Trước đây, hoạt động đối ngoại đa phương mới gói gọn trong
khuôn khổ hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề của Việt Nam, nhất là những
vấn đề liên quan hòa bình và chiến tranh.
Ngày nay, nói đến đối ngoại đa phương Việt Nam, ai cũng hình
dung đến một quốc gia đang chủ động vươn ra cùng cộng đồng quốc tế giải quyết
các vấn đề của khu vực và thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển. Từ ứng
phó biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, xóa đói
giảm nghèo, đến cải cách cơ cấu, tăng trưởng xanh, kết nối khu vực, phát triển
nguồn nhân lực, Việt Nam đã và đang khẳng định được chỗ đứng xứng đáng của mình
với tư cách một thành viên đầy trách nhiệm và có uy tín của cộng đồng quốc tế.
Liên hợp quốc đã nhiều lần vinh danh Việt Nam với tư cách là
một trong số ít quốc gia đi đầu trong thành tích xóa đói giảm nghèo, thực hiện
các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và sáng kiến “Một Liên hợp quốc.”
Từ năm 2014, Việt Nam đã lần đầu tiên tham gia các hoạt động
gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Chúng ta cũng trở thành nước đi đầu ở Đông
Nam Á với việc tham gia và đã phê chuẩn 7/9 Công ước chủ chốt của Liên hợp quốc
về quyền con người, đồng thời đẩy mạnh quá trình pháp điển hóa các quy định
trong nước cho phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là trong việc bảo vệ quyền lợi
của những nhóm thiểu số, dễ bị tổn thương trong xã hội.
Việc chúng ta tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP), Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB)… ngay từ khi những cơ chế
này vừa được thành lập là những tính toán chiến lược hết sức đúng đắn. Bởi lẽ,
với tư cách là thành viên sáng lập, Việt Nam có quyền tham gia định hình luật
chơi của các thể chế này nhằm tranh thủ mặt tích cực và bảo đảm tối đa lợi ích
quốc gia. Rõ ràng, cách tiếp cận mới đó giúp chúng ta nâng vị thế từ thụ động
lên vai trò chủ động tại các khuôn khổ đa phương vốn đầy rẫy sự cạnh tranh, thậm
chí áp đặt của các nước lớn.
Việt Nam đã và đang đi đầu trong ASEAN hoàn tất các hiệp định
thương mại tự do (FTA) quan trọng với các trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu
thế giới như Liên minh châu Âu (EU), Nga (trong Liên minh Kinh tế Á-Âu), Hàn Quốc…
Với triển vọng triển khai và hoàn tất 15 FTA đến năm 2020, Việt
Nam sẽ trở thành tâm điểm của các FTA ở khu vực với mạng lưới gồm 58 đối tác,
trong đó có toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,
15 nước G20, đóng góp trên 80% GDP toàn cầu.
Bên cạnh những lợi ích có thể lượng hóa, việc phát huy tốt
công cụ đối ngoại đa phương trong ASEAN đã nâng giá trị chiến lược và vị trí của
Việt Nam trong chính sách của các nước lớn đối với khu vực. Không phải ngẫu
nhiên mà trong 15 năm qua, chúng ta đã thiết lập được quan hệ Đối tác chiến lược
và Đối tác toàn diện với tất cả các nước láng giềng và các nước có vai trò, vị
trí quan trọng trên thế giới [1].
Thông qua các cơ chế hợp tác đa phương với ASEAN là trung
tâm, Việt Nam đã gia tăng tốc độ đan xen lợi ích chiến lược với các nước lớn có
ảnh hưởng chủ đạo ở khu vực và trên thế giới. Điều này đã góp phần giúp chúng
ta giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời tranh thủ được các nguồn
lực phục vụ phát triển.
Tâm thế mới
Năm 2015 là năm bản lề trong việc thực hiện chủ trương hội nhập
quốc tế nói chung và triển khai đối ngoại đa phương nói riêng. Với thành công
và dấu ấn tại IPU-132, Hội nghị Thượng đỉnh Khóa 70 Đại hội đồng Liên hợp quốc,
Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu toàn cầu của Liên hợp quốc (COP 21) và
đặc biệt là việc tham gia hoàn tất đàm phán nhiều FTA lớn và hình thành Cộng đồng
ASEAN, đối ngoại đa phương Việt Nam có đầy đủ hành trang để tự tin đi tới với
tâm thế và tầm vóc mới.
Thời gian 5-10 năm tới có ý nghĩa then chốt đối với công cuộc
Đổi mới, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững, nâng cao hơn nữa
vị thế đất nước. Đây cũng là thời điểm chúng ta đảm nhận nhiều trọng trách và
hoàn tất nhiều cam kết quốc tế. Đã đến lúc chúng ta cần triển khai hoạt động đối
ngoại với tư duy mới, cách tiếp cận mới và tư thế mới. Hoạt động đối ngoại đa
phương thời gian tới do vậy sẽ được “nâng tầm” theo các hướng sau:
Một là, chuyển mạnh từ tư duy “gia nhập và tham gia” sang tư
duy “chủ động tham gia đóng góp xây dựng và định hình luật chơi chung,” tăng cường
cách tiếp cận đa ngành, chú trọng nội hàm phát triển bền vững. Chúng ta sẽ chủ
động đóng góp vào các quan tâm chung, đẩy mạnh đề xuất sáng kiến, ý tưởng,
trong đó coi trọng thực hiện Cộng đồng ASEAN, hợp tác trong các cơ chế tiểu
vùng sông Mekog; nâng cao hiệu quả tham gia Liên hợp quốc, Phong trào Không
liên kết, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái
Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Cộng đồng Pháp ngữ
(Francophonie) và các khuôn khổ hợp tác khác, tích cực hơn trong việc đưa ra
các sáng kiến và cân nhắc tham gia, đồng khởi xướng các cơ chế hợp tác mới.
Hai là, trong giai đoạn từ nay đến 2020, đối ngoại đa phương
cần tập trung đảm nhận thành công các trọng trách và đăng cai tổ chức các hoạt
động đa phương lớn, đặc biệt là tiếp tục phát huy tốt vai trò thành viên Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 và Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp
quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018; đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao APEC và các
hoạt động của Diễn đàn này trong năm 2017; đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN
2020, ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021.
Ba là, cần có định hướng tổng thể và dài hạn của đối ngoại đa
phương Việt Nam trong 10-20 năm tới. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng tầm đối
ngoại đa phương đáp ứng các yêu cầu mới của hội nhập quốc tế toàn diện.
Chúng ta cũng cần thực hiện tốt các cam kết quốc tế lớn có thời
hạn vào 2016-2020, nhất là tiếp tục thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng AEAN 2025,
tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN, tham gia thực hiện Chương trình nghị sự
2030 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, hoàn tất các cam kết gia nhập
WTO vào năm 2018 cùng các hiệp định thương mại tự do nhiều bên, triển khai các
cam kết về ứng phó biến đổi khí hậu mà Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
nêu tại Hội nghị COP 21 vừa qua.
Chúng ta sẽ đẩy mạnh nội hàm phát triển bền vững và ứng phó với
các thách thức toàn cầu trong các hoạt động đa phương, đặc biệt những lĩnh vực
phục vụ thiết thực Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020.
Trong đó, Việt Nam coi trọng thúc đẩy tăng trưởng bền vững, đối
tác phát triển, liên kết và kết nối khu vực, tham gia sâu hơn các chuỗi giá trị
và cung ứng, cải cách cơ cấu, thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói nghèo, đổi
mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực, bình đẳng giới, ứng phó với biến đổi
khí hậu, thiên tai, nước biển dâng, dịch bệnh, nông nghiệp bền vững, an ninh
lương thực, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước, tài nguyên biển và đại
dương, an ninh, an toàn hàng hải… bởi đây là những lĩnh vực ta có lợi ích thiết
thân và khả năng đóng góp.
Xác định đúng và trúng những điểm đột phá của đối ngoại đa
phương trong thời gian tới sẽ tạo sức bật mới cho sự phát triển và vị thế đất
nước. Nâng tầm đối ngoại đa phương Việt Nam đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống
chính trị phải cùng vào cuộc. Để làm được điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
của các bộ, ban ngành, với lực lượng nòng cốt là đội ngũ cán bộ đối ngoại đa
phương có bản lĩnh, chuyên nghiệp, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Với những lợi ích to lớn và thành tựu quan trọng đạt được
trong những năm qua, đối ngoại đa phương hoàn toàn xứng đáng có một vị trí cao hơn
trong các ưu tiên đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét