Home » thoisu
Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016
Thành tựu 30 năm đổi mới của Việt Nam: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Quá trình thực
hiện đường lối đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, sát thực tế hơn
tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc và cơ chế vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nhìn lại thời kỳ đầu thực
hiện đường lối đổi mới, khi đó Đảng ta mới chỉ quan niệm kinh tế hàng hóa có những
mặt tích cực cần vận dụng. Quá trình đổi mới, từ thực tiễn, Đảng ta xác định:
Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng
chủ nghĩa xã hội (CNXH); từ đó áp dụng cơ chế thị trường, đưa ra quan niệm và từng
bước hoàn thiện, cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Nhận thức lý
luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN bắt nguồn từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Như chúng ta đã biết, trước Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nước ta vận
hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Thực hiện
đường lối đổi mới, với tư duy mới về kinh tế, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ và
khẳng định: Sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường không đối lập với CNXH mà là
thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết
cho công cuộc xây dựng CNXH. Có thể thấy rằng, đây là bước đột phá căn bản
trong tư duy, tạo cơ sở lý luận, khoa học cho việc lựa chọn mô hình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thực tiễn minh chứng, kinh tế
thị trường có khả năng thích ứng với mọi hình thái kinh tế-xã hội khác nhau. Có
thể nhận thấy, tính đa dạng của các nền kinh tế thị trường hiện nay tại các quốc
gia trên thế giới với sự khác biệt về cơ cấu sở hữu và cấu trúc xã hội. Kinh tế
thị trường gắn liền với sản xuất hàng hóa và hoàn toàn có thể được xây dựng tại
những quốc gia có những chế độ chính trị-xã hội khác nhau, với các mô hình kinh
tế thị trường cụ thể, đa dạng gắn liền với hình thái kinh tế-xã hội và chế độ
chính trị xã hội của mỗi nước. Theo đó, Đảng ta lựa chọn mô hình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN để đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Vậy, bản chất,
đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là gì? Đó là nền
kinh tế thị trường vừa bảo đảm yêu cầu phát triển hiện đại và hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời phù hợp với những điều kiện, đặc thù và giá trị truyền thống
của Việt Nam. Đảng ta chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái
kinh tế thị trường vừa tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”.
Vì vậy, cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ tư sản; trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thì người làm chủ là đông đảo nhân dân lao động, do nhà nước của
dân, do dân, vì dân đại diện quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây
chính là sự khác biệt căn bản nhất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại
của nền kinh tế thị trường như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát
nền kinh tế… hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều là thành quả tiến hóa chung
mang tính nhận thức và khoa học của loài người. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường
định hướng XHCN khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là không dùng quyền
chiếm hữu tư liệu sản xuất để nô dịch, bóc lột đa số người lao động, đồng thời
cũng không giống như mô hình kinh tế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp trước đây.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy những nguyên tắc của kinh tế thị trường
làm nền tảng cho cơ chế vận hành, sử dụng những nhân tố tích cực để thúc đẩy
kinh tế phát triển. Kinh tế thị trường theo mô hình mà Đảng ta lựa chọn là
phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN. Kinh tế thị trường không thể tự nó quyết
định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ chính trị-xã hội. Bản chất
của chế độ chính trị-xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy,
giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường là bảo đảm cho việc
thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Với bản chất
nêu trên, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta bao gồm đặc trưng, bộ phận
cấu thành và cơ chế vận hành như sau: Đó là nền kinh tế quá độ của xã hội quá độ
đang trong quá trình chuyển biến cách mạng từ nấc thang thấp sang nấc thang cao
trong phát triển; hệ thống mục tiêu, động lực của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; chế độ sở hữu và thành phần kinh tế; quan hệ phân phối; nguyên tắc
giải quyết các mặt và mối quan hệ chủ yếu; cơ chế vận hành kinh tế thị trường;
phát triển nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế; chủ thể lãnh đạo, quản lý thực hiện
kinh tế thị trường định hướng XHCN là Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong suốt
30 năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ.
Từ một quốc gia lạc hậu, thiếu đói thường xuyên, kém phát triển, đến nay chúng
ta đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới, trở thành nước đang
phát triển. Thật khó có thể liệt kê, thống kê một cách đầy đủ những thành tựu
trong phát triển kinh tế suốt 30 năm qua, nhưng cũng có thể nhận diện trên một
số vấn đề cơ bản sau.
Trước hết,
đó là việc thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế thành pháp luật, cơ chế,
chính sách. Trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Quốc hội đã 3 lần sửa đổi
và ban hành Hiến pháp; sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật; Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã ban hành trên 70 pháp lệnh… tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi
và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đặc biệt, Hiến pháp năm
2013 đã quy định quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm, thể hiện rõ hơn bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thể
hiện một cách khái quát, rõ ràng tư tưởng, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị
trường ở nước ta.
Thành tựu
kinh tế sau 30 năm đổi mới không thể không nhắc tới sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Theo đó, so với thời kỳ trước đổi mới, đến nay diện mạo đất nước có
nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện. Ví như, giai đoạn
1986 - 1990, tăng trưởng GDP bình quân hằng năm của nước ta chỉ đạt 4,4%, nhưng
đến giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm
trước đó. Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù chịu sự tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực; thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, nhưng tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta vẫn đạt 7% (bình quân giai đoạn này tăng 7,6%/năm). Những
năm gần đây, tuy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có giảm do chịu nhiều tác động,
nhưng kinh tế nước ta vẫn đạt mức độ tăng trưởng cao so với các nước trên thế
giới, giai đoạn 2011 - 2015, GDP ước đạt mức tăng bình quân 5,9%. Cùng với tốc
độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta cũng được nâng
lên. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta đạt hơn 2.200USD. Đặc biệt,
theo báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam vừa được Ngân hàng
Thế giới (World Bank) công bố ngày 2-12-2015 nhận định, kinh tế Việt Nam đã ứng
phó tương đối tốt trước những biến động của môi trường kinh tế bên ngoài với
tăng trưởng GDP ước tính đạt mức 6,5% trong năm 2015 và dự báo đạt 6,6% trong
năm 2016.
Cơ cấu thành
phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước được sắp
xếp, đổi mới, tổ chức lại, đóng góp gần 40% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế
then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Doanh
nghiệp tư nhân phát triển nhanh, hoạt động hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đóng
góp hơn 45% GDP góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội, nhất là giải
quyết việc làm và cải thiện đời sống Nhân dân. Cùng với sự phát triển về kinh tế,
thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước đã kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khắc phục căn bản tâm lý
thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; tạo ra sự năng động của nền kinh tế,
góp phần rất quan trọng nâng cao mức sống của người dân. Theo đó, tỷ trọng đầu
tư từ ngân sách Nhà nước cho an sinh xã hội trong 30 năm qua khoảng hơn
28%/năm. Nguồn lực huy động từ cộng đồng, cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội và sự hợp tác quốc tế cho an sinh chiếm khoảng 30%. Từ những chủ
trương trên, tốc độ giảm nghèo ở nước ta diễn ra nhanh và liên tục qua các năm.
Theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới tính cho Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo giảm
từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 5% (năm 2015). Số lượng đối tượng được trợ
giúp xã hội thường xuyên ngày càng mở rộng và tăng nhanh. Giáo dục, y tế, văn
hóa từng bước phát triển. Công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội được
tăng cường.
Cùng với những
thành tựu nổi bật trên, quá trình đổi mới về kinh tế chúng ta còn đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong việc hoàn thiện chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và
các loại hình doanh nghiệp; phát triển các loại hình thị trường; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối
với nền kinh tế; phát huy tốt vai trò làm chủ của Nhân dân, các tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong phát triển kinh tế;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển kinh tế…
Tóm lại, sau
30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta đã từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Thực lực của nền kinh tế
tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng
kinh tế được duy trì hợp lý. Việt Nam được đánh giá là nhóm quốc gia có mức
tăng trưởng khá cao trên thế giới. Những kết quả đó là thành tựu nổi bật trong
thực hiện các chủ trương, giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,
sự nỗ lực của các thành phần kinh tế. Kết quả đó còn là sự đoàn kết, đồng lòng,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét