Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016
Vấn đề Biển Đông dưới góc độ pháp luật quốc tế
1. Khái quát về Biển Đông
Biển Đông là một biển nửa kín ở khu vực Thái Bình Dương với
diện tích hơn 3,5 triệu km2. Có 9 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc,
Philippines, Malaysia, Bruney, Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Singapore. Trữ
lượng tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông lớn, đặc biệt là dầu, khí và hải sản.
Gần đây, nhiều thông tin cho biết Biển Đông có trữ lượng khá lớn về băng cháy.
Biển Đông là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai trên thế giới,
sau tuyến Địa Trung Hải. Mỗi ngày có khoảng 150 - 200 tàu trọng tài lớn đi qua
Biển Đông. Hàng hóa xuất nhập khẩu thiết yếu đối với các nền kinh tế lớn như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công phụ thuộc rất nhiều vào tuyến
đường biển này. Từ góc độ quân sự, Biển Đông là địa bàn hoạt động của hạm đội hải
quân của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Tất cả những yếu tố này dẫn đến một
hệ quả tất yếu và hiển nhiên là ở Biển Đông có sự đan xen rất chặt chẽ lợi ích
của nhiều nước với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển Đông ảnh hưởng
trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới.
2. Các vùng biển của các quốc gia ven Biển Đông theo luật biển
quốc tế
Hội nghị Luật Biển lần thứ III của Liên hợp quốc (1967-
1982) đã thông qua Công ước Luật Biển năm 1982 với 320 điều khoản và 9 Phụ lục.
Là thành quả của một cuộc thương lượng lâu dài giữa các nhóm nước khác nhau,
Công ước là một giải pháp cả gói công bằng và đỉnh cao trong quá trình pháp điển
hóa và phát triển tiến bộ ngành luật biển quốc tế. Công ước xác lập rõ ràng quy
chế pháp lý của các vùng biển khác nhau thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của
các quốc gia ven biển, quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khi tiến
hành các hoạt động liên quan đến biển và thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan
trọng liên quan đến thực hiện Công ước và giải quyết tranh chấp biển như Tòa án
Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên của Công ước, Cơ quan Quyền
lực quốc tế về Đáy Đại dương và Ủy ban Thềm lục địa. Tính đến nay, đã có 161 quốc
gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước Luật Biển năm 1982, trong đó có 7 quốc
gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Bruney.
Áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc vào điều
kiện cụ thể của Biển Đông chúng ta thấy mấy điểm cơ bản sau đây.
Một là , các quốc gia ven Biển Đông có chủ quyền đối với nội
thủy và lãnh hải 12 hải lý kể từ đường cơ sở của mình. Đáng lưu ý là theo luật
biển quốc tế những năm 40 - 50 của thế kỷ trước, vùng lãnh hải của các quốc gia
ven Biển Đông chỉ có 3 hải lý và toàn bộ phía ngoài 3 hải lý đó là vùng biển quốc
tế. Như vậy, Công ước đã mở rộng phạm vi vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển
Đông thêm 9 hải lý.
Hai là, mỗi quốc gia ven Biển Đông có quyền chủ quyền đối với
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tối thiếu 200 hải lý của
mình. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính
lãnh hải. Trong trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lý thì quốc gia
ven Biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến 350 hải lý với điều kiện
tuân thủ đúng các quy định và thủ tục nêu trong Công ước.
Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền thăm dò, khai thác
các tài nguyên trong các vùng biển của mình, đặc biệt là trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước. Mỗi
quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các
quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của mình. Mỗi quốc gia
ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia
láng giềng khác ven Biển Đông. Đồng thời, phù hợp các quy định của Công ước Luật
Biển năm 1982, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các
quốc gia khác được tự do hàng hải, tự do hàng không ở trong vùng đặc quyền kinh
tế và ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven
biển.
Ba là , xuất phát từ Công ước Luật Biển năm 1982 thì sự kiện
Trung Quốc ký hợp đồng với Công ty Creston năm 1992 ở bãi Tư Chính của Việt Nam
và chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò ” ra Liên hợp quốc vào tháng 5 năm
2009 cần được nhìn nhận thế nào? Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong phạm
vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và đã được Việt Nam phân lô thăm dò dầu
khí. Việc Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc vào năm 1992 ký với Công ty
Creston của Mỹ hợp đồng thăm dò dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính trong thềm lục
địa 200 hải lý của Việt Nam (mà họ đặt tên là Vạn An Bắc) là sự vi phạm trắng
trợn quyền chủ quyền của Việt Nam theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Còn về yêu sách “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn”, thì các
học giả Trung Quốc đều biết rõ là tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội
(2009) và thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng như các Hội thảo quốc tế khác, các
học giả Pháp, Bỉ, Mỹ và nhiều học giả quốc tế khác đã nêu rõ yêu sách “đường lưỡi
bò” mơ hồ, không có cơ sở và cho rằng Trung Quốc cần giải thích rõ bản chất
pháp lý của các vùng biển trong “đường lưỡi bò” đó. Nhưng cho đến nay, cả chính
giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.
Dùng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung
Quốc cũng là một bên tham gia để đối chiếu thì ai cũng thấy rằng yêu sách này
hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước
có thể biện minh cho yêu sách “đường lưỡi bò” . Đơn giản bởi vì vùng biển mà
“đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế
hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của Việt Nam , Philippines, Malaysia, Indonesia và Bruney.
Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm
trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam , Malaysia, Indonesia và Philippines lần
lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách này.
Việc đưa yêu sách phi lý nói trên ra Liên hợp quốc và tiến
hành các việc làm gần đây ở trên thực địa nhằm theo đuổi yêu sách này đang làm
cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng
thế giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh
chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất
bình trước yêu sách này.
3. Các tranh chấp ở Biển Đông hiện nay dưới ánh sáng của
pháp luật quốc tế
Ở Biển Đông có hai loại tranh chấp, gồm tranh chấp về các
vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và tranh chấp về chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
a. Do chiều rộng của một số khu vực ở Biển Đông (như Vịnh Bắc
Bộ và Vịnh Thái Lan) hẹp hơn 400 hải lý, nên một phần vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của các quốc gia láng giềng chồng lấn lên nhau. Từ đó nảy sinh một
số tranh chấp giữa các quốc gia ven Biển Đông về ranh giới vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa.
Liên quan Việt Nam, ở phía Bắc chúng ta có vùng chồng lấn thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ và khu vực
nhỏ phía ngoài cửa Vịnh, còn ở phía Nam có vùng chồng lấn với Campuchia, Thái
Lan, Malaysia trong Vịnh Thái Lan và vùng chồng lấn với Indonesia ở nam Biển
Đông. Các nước ven Biển Đông khác cũng có một số vùng chồng lấn thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế với nhau, như giữa Malaysia và Thái-Lan, giữa Thái Lan
và Campuchia, giữa Indonesia và Malaysia. Các khu vực chồng lấn này đã và đang
từng bước được Việt Nam và các nước hữu quan giải quyết thỏa đáng theo các quy
định của Công ước Luật Biển năm 1982.
b. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo đá
san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện nay, hai quần đảo đang là tâm điểm tranh
chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Tranh chấp về chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa liên quan Việt Nam và Trung Quốc, còn tranh chấp về chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa liên quan 5 nước, 6 bên là Việt Nam, Trung Quốc,
Philippines, Malaysia, Bruney (Bruney không yêu sách về chủ quyền các đảo) và
Đài Loan (Trung Quốc).
Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ,
pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm
hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa
bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để
giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ ở trên thế giới. Trong số
đó, các vụ kinh điển thường được viện dẫn nhiều là vụ tranh chấp đảo Palmas giữa
Mỹ và Hà Lan, vụ Minquiers và Ecréhous giữa Anh và Pháp, vụ đảo Clipperton giữa
Mexico và Pháp, vụ Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch v.v…
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường
hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mọi ngưòi đều thấy rằng Nhà nước Việt
Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm nay. Nói chính xác là
nhà nước ta đã thực hiện chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo
chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện thật sự
chủ quyền của mình đối với hai quần đảo một cách liên tục và hòa bình.
Các bằng chứng mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú. Một
là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát
Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều sách cổ của
Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục
(1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848) v.v… đều nói về
việc nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác quần đảo này. Hai là, nhiều sách cổ,
bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam . Ba là, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội
Hoàng Sa, Bắc Hải để tiến hành khai thác hai quần đảo (mỗi đội Hoàng Sa gồm 70
người, ra Hoàng Sa 6 tháng đánh bắt hải sản như đồi mồi, hải sâm, ốc qúy và
thu lượm hàng hóa trên các tàu bị đắm).
Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối
với các đội đều được nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt
động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783), đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và
nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815),
Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra
Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia. Năm
2009, gia tộc họ Đặng ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi vừa mới hiến tặng Nhà nước một sắc
lệnh trong gia phả của dòng họ khẳng định chủ quyền của Việt Nam.
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục
quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn
chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De
Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật, v.v…Từ năm 1930 đến 1932,
các tàu chiến Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân
Pháp liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho
quân đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa (Trường Sa, An Bang, Ba
Bình, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ).
Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của Cộng
hòa Pháp ngày 26 - 7 - 1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định quy
thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra
khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở
đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi
các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế
quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Vào năm 1951, tại Hội nghị San Francisco có một đề nghị bổ
sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46
phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị Trưởng đoàn quốc gia
Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước
nào.
Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho
chính quyền Sài Gòn và nhà cầm quyền Sài Gòn đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức
hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất
liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng.
Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Đó là, lợi dụng việc Pháp rút khỏi Đông
Dương theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc đã chiếm nhóm đảo phía Đông
của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Sài Gòn kịch liệt phản đối. Năm
1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng
Sa. Quân đội của chính quyền Sài Gòn đã đánh trả thắng lợi và bắt 82 “ngư dân”
Trung Quốc.
Đối với nhóm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền
Sài Gòn tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, lợi dụng việc quân đội Sài
Gòn phải đối phó với cuộc tiến công của quân cách mạng, Trung Quốc dùng không
quân, hải quân chiếm luôn phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Sài
Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam đã phản đối. Năm 1975, chính quyền
Sài Gòn sụp đổ, Nhà nước Việt Nam tiếp quản các đảo ở Trường Sa và lập các huyện
đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa.
Một sự thật hiển
nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện của Trung Quốc ở quần
đảo Trường Sa. Ngày 14 - 3 - 1988, Trung Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng một
số đảo đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong trận chiến không cân sức năm
đó, 64 người con yêu quý của Tổ quốc Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Tóm lại, dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy
đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thật lịch sử là Trung Quốc bắt đầu chiếm
đóng nửa phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ những năm 50 của thế kỷ
trước và đến năm 1974 dùng vũ lực chiếm luôn phần phía Tây của quần đảo này.
Còn ngày 14-3-1988 là ngày Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm một số đảo đá thuộc
quần đảo Trường Sa của chúng ta.
4. Giải pháp cho các vấn đề liên quan Biển Đông
a. Các vấn đề liên quan Biển Đông rất phức tạp, hệ trọng và
nhạy cảm đối với nhiều quốc gia liên quan. Các nguồn lợi trong các vùng biển ở
Biển Đông rất quan trọng đối với kế sinh nhai và đời sống hàng ngày của hàng
trăm triệu con người của 9 quốc gia ven Biển Đông. Các tài nguyên thiên nhiên ở
đây là một điều kiện cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của
các nước liên quan. Các nước ven Biển Đông đang đẩy mạnh các hoạt động thực hiện
chủ quyền biển, đảo của mình. Đồng thời các hoạt động khác liên quan đến Biển
Đông cũng hết sức đa dạng, phong phú (tự do, an toàn hàng hải, chống tội phạm
trên biển..) và gắn với lợi ích của nhiều quốc gia khác nhau (cả trong và ngoài
khu vực).
b. Từ đó, một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả
các nước có hoạt động liên quan Biển Đông là phải tuân thủ luật chơi chung mà cộng
đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công
ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ
quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của mình như được quy định trong Công ước, quốc gia ven Biển Đông
có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển
Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Đó là
nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Luật
Biển năm 1982. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước.
Sẽ là rất không công bằng và phi lý khi một quốc gia ven Biển
Đông tùy tiện vẽ ra một đường yêu sách mơ hồ, trái với Công ước Luật Biển năm
1982, vi phạm các vùng biển của các quốc gia láng giềng, tạo ra “vùng tranh chấp”
trong vùng biển của quốc gia láng giềng , để rồi đòi các quốc gia láng giềng bị
nạn “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên chính thềm lục địa của họ. Tương tự,
việc một quốc gia ven Biển Đông tự ý quy định cấm đánh bắt cá trong vùng đặc
quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng khác cũng là việc làm trái với quy định
của Công ước Luật Biển năm 1982. Cách hành xử như vậy, rõ ràng là những sự vi
phạm cam kết quốc tế của một nước thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của
tổ chức này.
c. Sự tồn tại các tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa cũng như tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế chồng lấn là một thực tế khách quan. Việc giải quyết các tranh chấp
này, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo, là một công việc
khó khăn, phức tạp, nhưng không phải là không thể giải quyết được. Như đã nêu
trên, giữa Việt Nam và Trung Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia và
Cam-pu-chia có các khu vực chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Vịnh
Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan. Thời gian qua, căn cứ vào Công ước Luật Biển năm 1982
và với tinh thần hữu nghị, láng giềng, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau,
Việt Nam đã phân định ranh giới các vùng biển với Thái Lan, ranh giới các vùng
biển với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ và ranh giới thềm lục địa với
In-đô-nê-xia ở phía Nam Biển Đông. Các nước khác ven Biển Đông cũng đã giải quyết
được một số tranh chấp trên biển với nhau bằng nỗ lực chung và trên cơ sở pháp
luật quốc tế. Gần đây nhất, tranh chấp về chủ quyền đối với một số đảo nhỏ giữa
Ma-lai-xia và Xinh-ga-po, giữa In-đô-nê-xia và Ma-lai-xia cũng đã được giải quyết
bằng các phán quyết của Tòa án quốc tế La Hay (ICJ).
Kinh nghiệm đó chỉ ra rằng các tranh chấp về chủ quyền đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các tranh chấp về các vùng biển chồng
lấn giữa các nước ven Biển Đông sẽ được giải quyết ổn thỏa khi pháp luật quốc tế,
trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, được tôn trọng và khi các biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc được áp dụng.
Đe dọa vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực đã bị pháp luật quốc tế cấm. Đe dọa vũ lực,
đe dọa sử dụng vũ lực sẽ không phải là cách thức đúng đắn để giải quyết các
tranh chấp ở Biển Đông.
d . Các tranh chấp liên quan đến Biển Đông dĩ nhiên là phức
tạp. Con đường đi đến giải pháp cuối cùng cho các tranh chấp mà các bên liên
quan đều chấp nhận được sẽ không bằng phẳng và còn dài. Thực tế đó đòi hỏi các
bên tranh chấp ở Biển Đông tăng cường nhiều nỗ lực hơn nữa. Trong quá trình tìm
kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp, các bên cần tuân thủ các cam
kết đã được nêu trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký giữa
ASEAN và Trung Quốc năm 2002, đặc biệt là cam kết không có bất cứ hành động nào
làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông. Các quốc gia thành viên ASEAN và Trung
Quốc cũng cần tăng cường các nỗ lực, cùng nhau phấn đấu để xây dựng một văn kiện
có tính pháp lý cao hơn, có tính ràng buộc cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông. Về hình thức văn kiện này có thể có thể dưới dạng một Hiệp ước, hoặc một
Hiệp định, hoặc một Thỏa thuận, hoặc cũng có thể là một MOU giữa ASEAN và Trung
Quốc được các đại diện có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc ký, sau đó được
các cơ quan có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc phê duyệt.
Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản (các nguyên tắc just cogent)
của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các quy định
của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa
bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng
xử ở Biển Đông, cùng chung sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa
bình, hữu nghị và hợp tác chính là chìa khóa cho các vấn đề phức tạp ở Biển
Đông hiện nay.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét