Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017
Kỳ 1: Lý sự cùn của Trung Quốc
QĐND - Tại
buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26-5-2014, Người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương chủ trì buổi họp báo đã phát biểu:
"Sau khi xem xét những nội dung có liên quan trong buổi họp báo do Bộ Ngoại
giao Việt Nam tổ chức hôm thứ sáu tuần trước (ngày 23-5), tôi thấy thật hoang
đường và tức cười. Phần lớn những bằng chứng lịch sử chỉ rõ, quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa của Việt Nam-PV) từ xưa đến nay là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc,
người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên đồng thời thực hiện hoạt động kinh
doanh, tiến hành quản lý cũng như thực hiện chủ quyền sớm nhất ở đây. Người
Trung Quốc là người chủ của quần đảo Hoàng Sa".
Ông Tần còn nói: Ngay từ thế kỷ thứ II trước
Công nguyên, tức thời nhà Hán, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động hàng hải
ở Biển Đông và phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. Sau đó, người Trung Quốc lần lượt
đến quần đảo Hoàng Sa khai thác, kinh doanh. Tài liệu lịch sử chứng minh từ thời
nhà Đường, Tống, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động đánh bắt ở quần đảo
Hoàng Sa. Hải quân thời Bắc Tống đã tiến hành quản lý có hiệu quả ở quần đảo
Hoàng Sa. Nhà thiên văn học nổi tiếng thời nhà Nguyên Quách Thủ Kính đã lập điểm
thiên văn ở quần đảo Hoàng Sa. Điều đó chứng minh quần đảo Hoàng Sa khi đó đã
là nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong một bài viết của ông Dương Trạch Vỹ,
Giáo sư, Tiến sĩ Luật học, công tác tại
Viện Nghiên cứu Luật quốc tế, Đại học Vũ Hán, cũng hết sức vô lý khi đưa ra
quan điểm tương tự như trên.
Để làm rõ sự sai trái của nhà chức trách cũng
như học giả phía Trung Quốc, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi
với Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Trung Quốc sai hoàn toàn
Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Phía Trung
Quốc sai hoàn toàn. Tại sao lại nói như vậy? “Việc Trung Quốc nói họ có những
chứng cứ lịch sử với Tây Sa, Nam Sa thậm chí cả Trung Sa và Đông Sa có từ thời
kỳ cổ đại, ngay từ thời kỳ trước Công nguyên, đối với tôi và nhiều học giả khác
cũng như dư luận đã từng nghe nhiều lần về điều này. Chúng tôi cũng từng có những
phân tích, đánh giá rất kỹ về vấn đề này. Một lần nữa, tôi xin nhấn mạnh lại ý
kiến của tôi, Trung Quốc đã dựa vào một nguyên tắc gọi là chủ quyền lịch sử,
danh nghĩa lịch sử với các đảo mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa.
Họ đã khai thác hết tất cả các yếu tố lịch sử được ghi nhận trong các tài liệu
lịch sử của Trung Quốc để họ nói rằng, người Trung Quốc đã xuống Biển Đông và
khu vực các đảo này, chính họ là người phát hiện ra, đã khai phá, đã làm ăn và
sau đó là quản lý, đồng thời rêu rao cái gọi là thực hiện chủ quyền của Trung
Quốc với các đảo này. Để có thể phân tích rõ luận thuyết đó của Trung Quốc
trong việc chứng minh quyền thụ đắc lãnh thổ trong luật pháp quốc tế, có giá trị
hay không, có giá trị đến mức nào, chúng ta cần xem xét dựa trên những nguyên tắc,
luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các khu vực lãnh thổ có tranh chấp.
Trong Biển Đông có các quần đảo, trong đó có
hai quần đảo của Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi xin khẳng định rõ ràng,
các quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp,
chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực".
“Luận điểm mà Trung Quốc đưa ra để biện minh
cho quan điểm của mình sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam dựa vào
cái gọi là thuyết chủ quyền lịch sử”-Tiến sĩ Trục cho biết.
Để khẳng định và bảo vệ cho yêu sách của mình,
các bên đã dựa vào những nguyên tắc pháp
lý như sau: Chiếm hữu thật sự; chủ quyền lịch sử; khoảng cách địa lý.
“Trung
Quốc đang dùng luận thuyết chủ quyền lịch sử để chứng minh chủ quyền. Đây là một
luận thuyết vô cùng lạc hậu, không được luật pháp quốc tế dùng để xử lý các
tranh chấp về thụ đắc lãnh thổ đối với các quần đảo”, Tiến sĩ Trục chỉ rõ.
Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, tại thời điểm hiện
nay, để đánh giá một cách khách quan, khoa học đối với các quan điểm pháp lý do
các bên tranh chấp chủ quyền nêu ra, chúng ta cần đề cập đến một số nội dung chủ
yếu của nguyên tắc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia trong pháp luật quốc
tế.
Ông Trục nêu rõ: Trong lịch sử phát triển lâu
dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ
quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các
phương thức thụ đắc lãnh thổ. Từ thế kỷ XVI, sự phát triển và lớn mạnh khiến
các nước như Hà Lan, Anh, Pháp... trở thành những cường quốc cạnh tranh với các
nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà theo Sắc lệnh của Giáo hoàng Alexandre VI ký
ngày 4-5-1493 đã phân chia khu vực ảnh hưởng cho 2 nước này ở các phạm vi lãnh
thổ mới phát hiện ngoài châu Âu.
Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải
đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những
vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu”,
hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện”. Nguyên tắc này dành quyền ưu
tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho một quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ
đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc quyền phát hiện chưa bao giờ tự
nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới
đó. Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện, giá trị pháp
lý của việc phát hiện, ai là người phát hiện trước, lấy gì để ghi dấu hành vi
phát hiện đó…Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm
hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại
dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó.
Mặc dù vậy, nguyên tắc chiếm hữu danh nghĩa
không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp
giữa các cường quốc đối với các vùng “đất
hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa
đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý…, mà còn ngày càng dẫn đến những đối đầu
quyết liệt hơn giữa các cường quốc, vì người ta không thể lý giải được cụ thể
cái “danh nghĩa” đã được lập ra bao giờ
và tồn tại như thế nào …
Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của
13 nước châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt, sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở
Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ
đắc mới. Đó là nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”.
Nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”
Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin
ký ngày 26-6-1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các
điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau:
Thứ nhất: Phải có thông báo về việc chiếm hữu
cho các quốc gia ký Định ước nói trên.
Thứ hai: Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước
đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến
cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng…
Theo Tiến sĩ Trục, Tuyên bố của Viện Pháp luật
quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “…mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh
nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh
nghĩa”. Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước
Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét, giải quyết các
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật
sự trong luật pháp quốc tế được Tiến sĩ Trục chỉ ra gồm các yếu tố:
Một: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do
nhà nước tiến hành.
Hai: Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách
hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (Res Nullius) hoặc là trên một vùng lãnh
thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto).
Ba: Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động
phi pháp. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần
thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh
thổ đó.
Bốn: Việc thực thi chủ quyền phải liên tục,
hòa bình.
Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này,
nên, mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10-9-1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước
Berlin 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và
các Cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các
tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Chẳng hạn Tòa án trọng tài thường trực
quốc tế La Haye tháng 4-1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo
Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, Phán quyết của Tòa án quốc tế của LHQ tháng 11-1953 đối
với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous…..
Gần đây hơn, Tòa án công lý quốc tế đã quyết định
cho Ma-lai-xi-a thắng trong vụ kiện với In-đô-nê-xi-a vào tháng 12-2002 về chủ
quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì tòa nhận thấy rằng Ma-lai-xi-a
đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét