Home »
Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017
ASEAN qua các vấn đề cốt lõi (phần 1)
ASEAN qua
các vấn đề cốt lõi
Cách đây nửa
thế kỷ, ngày 8/8/1967, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Singapore,
Philippines, Thái Lan và Phó Thủ tướng Malaysia đã họp mặt tại thủ đô của Thái
Lan để ký kết bản Tuyên bố Bangkok, khai sinh ra Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN). Vào thời điểm đó, giới quan sát từng dự đoán rằng ASEAN với tham vọng
quy tụ tất cả các quốc gia trong khu vực sẽ không tồn tại được lâu dài. Đến
nay, Hiệp hội không chỉ vừa kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50, mà số thành viên trong
Hiệp hội còn tăng lên thành 10 quốc gia, tức là hầu hết các nước Đông Nam Á.
Brunei gia nhập Hiệp hội ngày 7/1/1984, chỉ vài ngày sau khi giành được độc lập
từ Anh. Tiếp sau Brunei, Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, Lào và Myanmar
trở thành thành viên Hiệp hội vào năm 1997, và gần đây nhất, Campuchia, năm
1999.
ASEAN đã khởi
xướng các diễn đàn với sự tham gia của các quốc gia không phải là thành viên Hiệp
hội. Trong số các diễn đàn như vậy, có thể kể đến Hội nghị ASEAN+3 tập hợp cả
Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, hay Hội nghị Á-Âu (ASEM) diễn ra 2 năm một lần.
Năng động trong phát triển kinh tế, có vị trí quan trọng chiến lược do nằm ở
ngã tư giao lưu thương mại thế giới, Đông Nam Á đã khiến nhiều quốc gia phải
xác định lại chính sách đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, với
các khuôn khổ khác nhau, mang đến một diễn đàn đối thoại lý tưởng.
Tuy nhiên,
Hiệp hội cũng không tránh khỏi những chỉ trích. ASEAN thường xuyên bị công kích
là không thể đáp ứng được những thách thức mà các quốc gia thành viên phải đối
mặt, dù là những thách thức liên quan đến các vấn đề phát triển hay an ninh.
Nhiều đề xuất kêu gọi ASEAN cải cách, tư duy lại các vấn đề. Những đề xuất này
không mới và đặt ra một câu hỏi khác: câu hỏi về cơ cấu tổ chức, khả năng thật
sự của ASEAN và mong muốn của Hiệp hội trong việc thay đổi. Nhân dịp kỷ niệm 50
năm ngày thành lập ASEAN, chúng ta cần tìm hiểu rõ hơn về tổ chức đặc biệt này:
1. Tại sao
ASEAN được thành lập?
Năm 1967,
vào thời điểm thành lập ASEAN, 5 quốc gia sáng lập Hiệp hội có cảm giác đang bị
dồn vào chân tường. Indonesia và Malaysia vừa thoát khỏi một cuộc đối đầu quân
sự (1962-1966) kéo theo nhiều hậu quả tàn phá Konfrontasi. Cuộc xung đột thảm
khốc, với thiệt hại nặng nề về người và của đã khiến lãnh đạo các quốc gia
trong khu vực nhận thức rằng đến lúc phải hạ nhiệt căng thẳng một cách lâu dài.
Nhưng trên hết
là bối cảnh Chiến tranh Lạnh mang tới cho các quốc gia này một cảm giác bất lực.
Các cuộc đối đầu về ý thức hệ giữa hai khối dường như ngăn cản sự phát triển
chính trị và kinh tế của các quốc gia trẻ tại Đông Nam Á. Tất cả các quốc gia,
ngoại trừ Thái Lan, đều đổi bằng máu mới giành được độc lập. Và giờ đây chủ quyền
quý giá ấy đang bị đe dọa một lần nữa. Việc thành lập ASEAN trước hết là sự
trùng hợp ngẫu nhiên của nhiều tình huống. Mục tiêu lúc bấy giờ là dựng nên một
bức tường thành thể chế để bảo vệ những thành quả về chủ quyền. Thông qua
ASEAN, các nhà lãnh đạo 5 quốc gia sáng lập tái khẳng định không chỉ là độc lập
quốc gia, mà họ còn xây dựng hòa bình, bối cảnh cho phép phát triển kinh tế.
2. ASEAN có
phải là mô hình của EU ở châu Á không?
ASEAN thường
được so sánh với Liên minh châu Âu (EU). Tham khảo hình mẫu một tổ chức khu vực
có tính liên kết nhất thế giới là việc làm khôn ngoan. Đây có lẽ là lý do tại
sao mà các nước ASEAN minh chứng sự rập khuôn trên giấy tờ, đặc biệt là khi các
quốc gia thành viên ASEAN họp mặt tại Bali vào năm 2008 đã quyết định thành lập
một "cộng đồng" dựa trên ba trụ cột: kinh tế, chính trị-an ninh và
văn hóa-xã hội - giống như 3 trụ cột của Cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên, sự so
sánh mang lại những kết luận ít khi làm ASEAN hài lòng. Nếu những lời phê phán
đối với ASEAN thường được biện minh, thực tế ASEAN và EU khó so sánh được với
nhau.
ASEAN và việc
xây dựng EU khởi đầu ở những khu vực không có cùng nền tảng lịch sử. Mặc dù cả
hai dự án đều có mục đích tạo ra các điều kiện cho hoà bình, nhưng phương pháp
và các chủ thể chủ chốt thực hiện dự án lại rất khác nhau. Việc xây dựng EU được
khởi xướng bởi các nhà lãnh đạo dân chủ tại quốc gia có lịch sử lâu dài bị tàn
phá bởi chiến tranh. Những nhà lãnh đạo này ý thức đầy đủ rằng chủ nghĩa dân tộc
là nguyên nhân của những cuộc xung đột đẫm máu dẫn đến những hậu quả tàn phá đối
với toàn châu lục. Còn với ASEAN, đây là mô hình được các nhà lãnh đạo ý thức
chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện củng cố quyền lực của họ. Vì thế, trong
khi những người sáng lập EU muốn che lấp đi vấn đề chủ quyền của các Nhà nước-dân
tộc, các nhà lãnh đạo Đông Nam Á lại coi Nhà nước-dân tộc như hình mẫu xây dựng
đất nước của họ.
Trái với việc
thành lập EU, ASEAN lại có xu hướng đề cao chủ quyền của các quốc gia thành
viên và thể hiện - như tên gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - là một Hiệp hội
của các quốc gia. Đối lập với các thể chế siêu quốc gia và phương châm “cộng đồng”,
mô tả sự vận hành có tính liên kết của một phần trong EU, ASEAN lại có cái gọi
là “phương thức ASEAN” (ASEAN way).
3. “Phương
thức ASEAN” là gì?
“Phương thức
ASEAN” tập hợp tất cả các nguyên tắc mà dựa trên đó Hiệp hội đã ra đời. Phương
thức này nhấn mạnh sự tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên và cam kết
không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Như vậy lợi ích quốc
gia được đặt lên trên lợi ích của cộng đồng. Các nguyên tắc gần như bất khả xâm
phạm này, là bản chất của ASEAN, được ghi trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở
Đông Nam Á (TAC), ký kết và có hiệu lực tại Bali (Indonesia) năm 1976. Với công
cụ này, ASEAN cố gắng ghi dấu ấn lên hệ thống quan hệ quốc tế thông qua việc đề
xuất tầm nhìn riêng về quản lý các vấn đề của thế giới. Ngày nay, nhiều quốc
gia không phải là thành viên ASEAN, như Pháp chẳng hạn, đã chấp nhận ký Hiệp ước
này như điều kiện tiên quyết để tăng cường quan hệ với các nước thuộc Hiệp hội.
Trong thực
tiễn của các thể chế, "phương thức ASEAN" dựa trên ba nguyên tắc:
tham vấn và đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia
thành viên và sự linh hoạt có được nhờ một Ban Thư ký với nguồn lực hạn chế.
Đây là cách Hiệp hội đã phát triển một bản sắc thực sự và đã trở thành một “mô
hình ngược” với các tổ chức siêu quốc gia. Tuy nhiên, những người phản đối cho
rằng “phương thức ASEAN” là vấn đề chính của tổ chức khu vực này: phương thức
này ngăn cản việc giải quyết các vấn đề thực chất mà khu vực đang phải đối mặt
và khiến Hiệp hội trở thành một diễn đàn thảo luận hạn chế.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét