Home »
Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017
ASEAN qua các vấn đề cốt lõi (phần 2)
4. ASEAN có
đóng góp vào hòa bình và ổn định khu vực hay không?
Kể từ khi
thành lập vào năm 1967, ASEAN đã không gặp xung đột vũ trang lớn giữa các quốc
gia thành viên. Việc thiết lập các cơ chế đối thoại được thể chế hóa đã tăng cường
đáng kể sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên hiệp hội và chắc chắn đã
góp phần ngăn ngừa xung đột. Điều này có nghĩa là khu vực đang ổn định và hòa
bình hay không? Sẽ là cường điệu khi khẳng định điều này.
Vẫn còn thực
tế những cuộc xung đột ở mức độ thấp ít được tuyên truyền tại Tây Âu. Năm 2011,
cuộc nổ súng giữa binh lính Thái Lan và Campuchia đã làm 18 người thiệt mạng.
Nguyên nhân xung đột là mâu thuẫn từ lâu giữa hai nước về chủ quyền đối với
ngôi đền Phật giáo Preah Vihear. Năm 2013, các công dân Philippines đã đổ bộ
vào Sabah (Malaysia) để khẳng định tuyên bố chủ quyền của một nhóm chiến binh
mang tên Quân đội Hoàng gia Vương quốc Sulu và Bắc Borneo. Các cuộc đụng độ với
quân đội Malaysia làm hơn 60 người thiệt mạng. Ngoài ra, còn có cuộc nội chiến
dai dẳng hơn một thế kỷ tàn phá Myanmar và cuộc chiến giữa các nhóm vũ trang độc
lập và các lực lượng an ninh trên đảo Mindanao (Philippines).
Như vậy bảng
tổng kết của ASEAN về hòa bình và ổn định có không ít sắc thái, đặc biệt kể từ
khi tổ chức khu vực này luôn ở bên ngoài các cuộc xung đột với danh nghĩa
nguyên tắc thiêng liêng không xâm phạm và ưu tiên lợi ích quốc gia. Hầu hết các
nhóm vũ trang không thuộc nhà nước gây xáo trộn trong khu vực bị thúc đẩy phần
nào bởi những thất vọng về kinh tế xã hội và những phi vụ thương mại tại các
khu vực biên giới. Không ít vấn đề xuyên quốc gia đòi hỏi phải có một phản ứng
mang tầm khu vực mà ASEAN dường như không thể đáp ứng được.
5. ASEAN có
phải là một đòn bẩy ngoại giao của các nước Đông Nam Á hay không?
Do những
nguyên tắc của ASEAN, các quốc gia thành viên Hiệp hội hành động trước hết dựa
trên việc theo đuổi lợi ích quốc gia của mỗi nước mà không thực sự chú trọng lợi
ích cộng đồng Hiệp hội mà họ là thành viên. Sự thiếu phối hợp trong vấn đề trọng
đại, tranh chấp lãnh thổ ở khu vực Biển Đông, minh chứng rõ ràng cho sự bất lực
hiện nay của ASEAN trong tư cách một chủ thể chính trị tại khu vực.
6. Quan hệ
giữa ASEAN và Trung Quốc, quốc gia đóng vai trò quan trọng trong khu vực?
Mối quan hệ
giữa Trung Quốc và các nước ASEAN tồn tại từ lâu và phức tạp. Vào thời phong kiến
Trung Quốc, các vương quốc ở Đông Nam Á công nhận sự vượt trội về chính trị,
quân sự và văn hóa của Đế chế Trung Hoa và giao dịch với Trung Quốc thông qua chế
độ cống phẩm. Mối quan hệ bất đối xứng này dường như được duy trì cả trong hiện
tại. Nó đặc trưng bởi sự phụ thuộc mạnh mẽ về kinh tế và sự hoài nghi sâu sắc,
dè chừng đối với Trung Quốc, quốc gia không ngừng khẳng định thế lực của mình,
kéo theo sự tổn hại lợi ích của các nước ASEAN láng giềng. Những điều này có thể
quan sát được qua thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Bắc Kinh coi khu vực Đông
Nam Á là khu vực ảnh hưởng của mình và thể hiện điều này qua một diễn văn. Từ
vài năm gần đây, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đưa ra một dự án chiến lược rộng lớn
mang tên "Con đường Tơ lụa mới", với trục hàng hải liên quan trực tiếp
tới phần lớn các quốc gia ASEAN.
Trước thực tế
này, các quốc gia ASEAN thể hiện những thái độ khác nhau tùy thuộc vào quan điểm
về mức độ đe dọa hoặc cơ hội mà Trung Quốc mang đến cho mỗi nước. Bắc Kinh
không ngừng tận dụng sự chia rẽ này để gây sức ép lên ASEAN, thậm chí áp đặt
chương trình nghị sự cho các nước ASEAN. Năm 2012, Campuchia, đảm nhiệm cương vị
chủ tịch luân phiên ASEAN, chịu áp lực của Trung Quốc, đã ngăn cản Hiệp hội ra
tuyên bố chung có nội dung cứng rắn đối với thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bốn năm sau, Phnom Penh lặp lại một hành động tương tự như vậy.
7. Khủng hoảng
kinh tế châu Á năm 1997 có tác động như thế nào tới ASEAN?
Cuộc khủng
hoảng kinh tế năm 1997 đã chứng kiến đồng nội tệ của các nền kinh tế năng động
nhất khu vực suy sụp. Đây là thách thức lớn đầu tiên mà ASEAN phải đối mặt kể từ
sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Hiện tượng lây lan giữa các nền kinh tế có kết
nối không đi kèm một kế hoạch mang tầm khu vực tương xứng với mức độ nghiêm trọng
của cuộc khủng hoảng và ASEAN đã cho thấy sự thiếu phối hợp giữa các quốc gia
thành viên.
Thời kỳ này
không chỉ làm lung lay tham vọng của Hiệp hội trong việc tự khẳng định như là động
cơ phát triển chính trị và thể chế của khu vực, mà còn cho thấy những hạn chế của
"phương thức ASEAN". Cuộc khủng hoảng cũng làm chấm dứt "phép
màu châu Á", biệt danh một thời các nước ASEAN từng có. Suy yếu sâu sắc,
Hiệp hội muốn cải tổ bằng cách cố gắng tư duy lại mô hình: không can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia thành viên. ASEAN cố gắng một cách vô ích khi
đưa ra khái niệm về "tăng cường tương tác", các nước thành viên vẫn
trung thành với "phương thức ASEAN", vốn ngăn chặn sự phát triển của
các thể chế hòa nhập hơn.
Tuy nhiên, về
mặt kinh tế, các nước ASEAN đã lấy lại được sức sống. Ngày 21/12/2015, Hiệp hội
đã hoàn thành mục tiêu thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN, nhằm hợp nhất 10 nền
kinh tế vào một thị trường duy nhất với 600 triệu dân từ nay đến năm 2020. Các
nhà phân tích dự đoán rằng vào năm 2030, ASEAN sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ
tư trên thế giới. Tăng trưởng GDP của ASEAN dự kiến sẽ đạt 2,5 nghìn tỷ USD vào
năm 2017, vượt qua các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Như vậy, hậu quả lâu dài
của cuộc khủng hoảng năm 1997 chủ yếu là về mặt chính trị.
8. ASEAN có
ý định kết nạp thêm thành viên mới không?
Hai quốc gia
là ứng cử viên chính thức đề nghị được gia nhập ASEAN là: Nhà nước trẻ Timor
Leste, mới giành được độc lập từ Indonesia vào năm 2002 và Papua New Guinea. Đề
nghị của Timor Leste được đệ trình vào năm 2011, dường như là việc hợp lẽ. Lúc
đầu, ASEAN chào đón đề nghị này của Timor Leste. Đất nước nhỏ bé này cũng đã
coi việc gia nhập ASEAN là một đại sự quốc gia và là một ưu tiên trong chính
sách đối ngoại.
Tuy nhiên,
sau nhiều đánh giá của ASEAN mang đến những kết quả không khả quan, các quốc
gia như Singapore coi việc Timor Leste gia nhập ASEAN lúc này là quá sớm: Timor
Lest chưa có cơ cấu hành chính cho phép thực thi các cam kết khu vực. Theo các
báo cáo, Nhà nước non trẻ không thể tuân thủ hầu hết các thỏa thuận mà nước này
có ý định ký kết với ASEAN. Timor Leste vẫn còn chịu hậu quả của cuộc chiến
tranh giành độc lập với Indonesia. Mặc dù sự chậm trễ về phát triển có thể
nhanh chóng được bù đắp bởi các khoản thu từ dầu mỏ và các thể chế dân chủ dường
như đang được củng cố, ít nhất còn 41,8% dân số vẫn sống dưới ngưỡng nghèo đói.
Tuy nhiên, nếu vấn đề gia nhập ASEAN của Timor Leste chưa thành hiện thực trong
thời gian này, Timor Leste vẫn được hưởng quy chế quan sát viên và đơn gia nhập
đã chính thức được xem xét.
Papua New
Guinea hưởng quy chế quốc gia quan sát viên từ năm 1976. Không dễ tìm ra lý do
chính thức giải thích việc tại sao nhà nước này vẫn chưa được gia nhập Hiệp hội.
Dường như các nước ASEAN không đồng ý với sự gắn bó về địa lý và dân tộc của quốc
gia này đối với khu vực Đông Nam Á.
9. Viễn cảnh
của ASEAN 50 năm tới?
Thường bị
các nhà lãnh đạo phương Tây lãng quên kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặc
trưng chiến lược của Đông Nam Á dường như một lần nữa khiến các nhà quan sát và
những nhân vật chủ chốt có tác động trực tiếp tới quan hệ quốc tế, phải thay đổi
quan điểm. Tại khu vực này, eo biển Malacca là nơi trung chuyển đến gần một nửa
trọng tải hàng hóa vận chuyển bằng đường biển trên thế giới. Khu vực này cũng
diễn ra cuộc xung đột ở Biển Đông, một cuộc đối đầu lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc
ở châu Á-Thái Bình Dương; và khu vực này cũng đang trên đà trở thành điểm nút
(mấu chốt) mới của chủ nghĩa khủng bố quốc tế với minh chứng là chiến sự Marawi
ở Philippines, đang bước vào tháng thứ 4 xung đột. ASEAN đang phải vật lộn để
giải quyết những thách thức này. Thay vì giải quyết tận gốc các vấn đề, các chế
độ đang nắm quyền lại sử dụng các cuộc xung đột và mối đe dọa khủng bố nhằm củng
cố quyền lực của họ với sự giúp sức mạnh mẽ của chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa
dân tộc. Qua 50 năm thành lập và tồn tại, ASEAN cho thấy sự bất lực và chia rẽ
trước sự hung hăng của Bắc Kinh và sự nổi lên của chủ nghĩa khủng bố ở Đông Nam
Á. Một hoạt động đặc biệt mang tính báo hiệu: các cuộc tuần tra 3 bên bao gồm
Malaysia, Indonesia và Philippines ở biển Sulu, nhằm mục đích giám sát động
thái của những phần tử khủng bố Hồi giáo, những kẻ đang nung nấu phát triển
hàng ngũ những chiến binh Hồi giáo cực đoan ở Marawi, đã hình thành bên cạnh
khuôn khổ thể chế ASEAN.
Tuy nhiên, nếu
ít người phản đối ý kiến về sự bất lực của ASEAN, sự cần thiết của Hiệp hội lại
là điều không phải bàn cãi. Chuyên gia về khu vực Đông Nam Á Sophie Boisseau du
Rocher đã nhấn mạnh vai trò của Hiệp hội là không thể thiếu trong việc đóng góp
"nâng tầm quan trọng của khu vực trên bản đồ thế giới" và cả đóng góp
vào việc làm thế giới trở nên gắn bó hơn.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét