Home » hoptacdoingoai
Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017
Không thể xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam
QĐND - Hàng loạt hoạt động đối ngoại được lãnh đạo Đảng
và Nhà nước ta tiến hành trong thời gian gần đây nhằm tăng cường hợp tác và đối
thoại chiến lược với nhiều đối tác, nâng cấp quan hệ song phương với một số quốc
gia, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển... do Đại hội lần thứ XII đề ra.
Sự chủ động, tích cực đó của Việt Nam được dư luận thế
giới đồng tình và đánh giá cao. Ấy vậy mà đây đó vẫn xuất hiện những giọng điệu
lạc lõng cho rằng, tư duy ngoại giao của Việt Nam đã lỗi thời và khuyến cáo rằng,
đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi chính sách đối ngoại nếu không muốn bị cô lập...
Thực chất của chiêu trò này không gì khác vẫn là xuyên tạc sự thật hòng làm cho
thế giới nghi kỵ với Việt Nam, chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam với các nước, làm
giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ta.
Những giọng điệu ấy dù có xảo quyệt, tinh vi đến đâu
đi chăng nữa cũng không thể xuyên tạc được sự thật lịch sử, không thể đánh lừa
được dư luận. Thực tiễn lịch sử từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời (2-9-1945) cho đến nay, đặc biệt
trong hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập công bố trước quốc dân đồng
bào tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Có thể nói đó là những thông điệp ngoại
giao đầu tiên mà Việt Nam muốn gửi tới thế giới. Trong hoàn cảnh đất nước vừa
giành được độc lập, với một chính quyền non trẻ đứng trước vô vàn gian nan, thử
thách, có những lúc ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Việt Nam đã thể hiện rõ
ý chí và thiện chí của mình đó là lấy độc lập, tự chủ, bằng sức mình là chính,
đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Trên thực tế ngoại giao đã được Đảng
ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để bảo
vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, huy động nhân
tài, vật lực để kiến thiết đất nước. Những thành công khởi đầu ấy đã đặt móng,
xây nền cho công tác ngoại giao, tiếp thêm động lực và để lại những kinh nghiệm
quý để Việt Nam tổ chức mặt trận ngoại giao trong các cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc sau này.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
thực hiện những đường lối, quyết sách đúng đắn, đặc biệt là các hoạt động ngoại
giao khôn khéo, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Đảng
ta, đấu tranh ngoại giao đã góp phần quan trọng nâng cao địa vị của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế; phân hóa, cô lập kẻ thù. Và cuối
cùng, bằng những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao kết hợp với những thắng lợi
về quân sự trên chiến trường, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải cam kết công
nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và các nước Đông Dương. Thực
hiện đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác ngoại giao Việt Nam luôn là một mặt trận hỗ
trợ và phối hợp với mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự. Bằng nhiều
hoạt động và biện pháp linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, đấu tranh ngoại giao đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt là qua 30 năm đổi
mới, công tác đối ngoại luôn bám sát tình hình thế giới, tiếp tục đạt được những
thành quả quan trọng, góp phần không nhỏ vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của đất nước. Sẽ là phiến diện nếu bàn đến thành tựu của công tác ngoại
giao mà không nhấn mạnh nhân tố quyết định đó là sự phát triển trong tư duy ngoại
giao và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Có thể khẳng định tư duy ngoại giao của Đảng
ta luôn đổi mới và phát triển không ngừng. Chính sự đổi mới, phát triển ấy đã
giúp cho chính sách ngoại giao của Việt Nam luôn phù hợp với xu thế của thời đại,
phù hợp với tình hình thế giới và trong nước, đạt được những thành tựu kỳ diệu,
không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sự phát triển tư duy ngoại giao của Đảng ta được thể
hiện rõ nét trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI đề ra. Trong đó về lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đã thể hiện rõ
quan điểm, cái nhìn mới mẻ về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới; về những tác động, ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ thế giới với Việt Nam; về xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước... Từ những nhận định chiến lược, Đảng ta chủ trương: Mở rộng hợp tác quốc
tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sau hơn 1 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 13/NQ-TW
"Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới", trong đó
khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Việt Nam là "Củng cố
và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế". Nghị
quyết cũng thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng ta đó là
"thêm bạn, bớt thù"... Trong đổi mới về tư duy đối ngoại, Bộ Chính trị
xác định: Đổi mới tư duy cho kịp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình thế
giới, kết hợp sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới của tình hình thế giới.
Như vậy có thể nói, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đánh dấu sự đổi mới tư
duy về công tác đối ngoại. Đây là cơ sở hình thành đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới
vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niêm 90 của thế kỷ trước, tại Đại hội
lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại,
với trọng tâm là “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại
hòa bình”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nhiệm vụ bao trùm
của công tác đối ngoại là: "Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ".
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Đảng ta chủ trương đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm: Việt Nam muốn là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Tại Đại hội toàn quốc lần
thứ XII, Đảng ta đã kế thừa những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại được
thông qua tại các kỳ đại hội trước, đặc biệt là Đại hội XI và có những bổ sung,
phát triển mới. Đại hội XII chủ trương tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều
sâu.
Như vậy có thể thấy rõ đường lối đối ngoại rộng mở đề
ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã được Đảng ta bổ sung, phát triển
thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế. Tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả của đường lối đó đã được
minh chứng bằng thành tựu rực rỡ của công tác đối ngoại qua các nhiệm kỳ đại hội.
Đường lối đó đã góp phần quan trọng tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, điều
kiện thuận lợi và tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển
KT, XH, tăng cường QP, AN, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế. Thực hiện đường lối đúng đắn đó, Việt Nam đã tham gia tích cực vào tiến
trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi
vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào
các thể chế kinh tế toàn cầu. Đường lối đó đã khẳng định vị thế và vai trò cầm
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Sự thật rất rõ ràng vậy mà người ta vẫn cố tình xuyên
tạc. Hành động xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam mà những kẻ phản động
đang tiến hành là hết sức nguy hiểm. Đặc biệt giữa lúc toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đang tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp, tranh thủ sự ủng hộ của
bạn bè quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì những hành động ấy dễ làm nhiễu
thông tin, gây phân tâm, gây hiểu lầm trong quan hệ của các nước với Việt Nam,
tác động tiêu cực tới niềm tin của nhân dân vào đường lối đối ngoại của Đảng.
Sự phát triển trong tư duy ngoại giao, tính đúng đắn,
sáng tạo và hiệu quả trong đường lối đối ngoại của Đảng ta là lời tuyên bố bác
bỏ mọi giọng điệu xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch, các tổ chức phản
động, những phần tử cơ hội và bất mãn chính trị. Vấn đề đặt ra với mỗi người Việt
Nam chân chính ở cả trong và ngoài nước là cùng với quán triệt, nâng cao nhận
thức về đường lối đối ngoại của Đảng, phải chủ động phát hiện và đấu tranh mạnh
mẽ phản bác mọi thông tin sai sự thật, những luận điệu xuyên tạc chống phá của
các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển KT,
XH, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trong khu
vực và trên thế giới.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét