Home » thoisu
Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018
Cần hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số
Những năm qua, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, một trong những thủ đoạn thâm hiểm được các thế lực thù địch triệt để lợi
dụng là "quyền dân tộc tự quyết” hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Quyền tự quyết dân tộc dưới góc nhìn luật pháp quốc tế
Xét trên bình diện quốc tế, quyền dân tộc tự quyết là
quyền của mỗi dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị và thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội (KT-XH) trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Trong Hiến chương
Liên hợp quốc (LHQ), dân tộc tự quyết được coi là nguyên tắc để duy trì hòa
bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Hiến chương khẳng định: “Phát triển mối quan
hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của
các dân tộc”; đó là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền và có quyền
tự định đoạt vận mệnh của mình.
Ngày 14-12-1960, Đại hội đồng LHQ ban hành Nghị quyết
số 1514 (XV) thông qua Tuyên bố về “Trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc
thuộc địa”; tại Điều 2, nghị quyết chỉ rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự
quyết, trong đó có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát triển
KT-XH và văn hóa của mình”. Điều này, tiếp tục được khẳng định tại Điều 1, Công
ước Quốc tế về các quyền KT-XH và văn hóa năm 1966: “Mọi dân tộc đều có quyền tự
quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của
mình và tự do phát triển KT-XH và văn hóa”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc
của luật quốc tế của LHQ cũng nhấn mạnh: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập
có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc
gia đó, cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do
quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết” và “mỗi quốc gia đều
có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, phù hợp với Hiến chương LHQ”.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau:
Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc
gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện; tự lựa chọn cho mình chế độ
chính trị, KT-XH; tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên
ngoài; quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu
tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, kể cả
giúp đỡ về quân sự; tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống,
lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. Tất cả các quyền nêu trên của mỗi
dân tộc đều được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. Như vậy, “quyền
dân tộc tự quyết” được hiểu là việc một quốc gia-dân tộc hoàn toàn tự do trong
tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường
lối phát triển đất nước.
Hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc
thiểu số
Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi
nhận trong hai Công ước quốc tế là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
của LHQ (UDHR) năm 1948: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và
tự do không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2) và Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi: “Tại những nước có nhiều
nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân
thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành
viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền văn
hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng
tiếng nói riêng của họ” (Điều 3). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng,
ghi nhận các quyền pháp lý cơ bản của con người về dân sự, chính trị mà quyền
dân tộc thiểu số được coi là quyền cơ bản trong nhóm các quyền dân sự, chính trị
đó. Điều đó có nghĩa là người dân tộc thiểu số (DTTS) có đầy đủ các quyền về
dân sự, chính trị, KT-XH, văn hóa như những người thuộc dân tộc đa số trong xã
hội, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền của DTTS tuy có mối
quan hệ nhưng nội hàm của chúng hoàn toàn khác nhau. Đối với quyền của DTTS, chủ
thể hưởng thụ quyền là các DTTS trong một quốc gia. Quốc gia đó có trách nhiệm
bảo đảm cho các DTTS trong quốc gia mình được hưởng thụ quyền dựa trên điều kiện
đặc thù của mình. Còn chủ thể quyền dân tộc tự quyết là quốc gia-dân tộc chứ
không phải là một DTTS trong quốc gia-dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không cho
phép một DTTS ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập
với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Trong
mỗi quốc gia có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, tất cả các dân tộc này
cùng hợp thành một dân tộc chung nhất, đồng nghĩa với nhân dân và mang tên gọi
của đất nước mình.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh
em cùng sinh sống, đoàn kết, hòa thuận trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng
và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục
tiêu bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của nhân dân
Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia
là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc
dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; đồng thời nhấn mạnh:
“Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Nội dung này đã được thể hiện
trong các văn bản pháp luật khác, như: Luật Quốc tịch năm 2008; Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) năm
2015... Ở Việt Nam, chỉ có khái niệm quyền con người, quyền công dân; đó là quyền
của tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt họ là DTTS hay đa số. Quyền con
người thuộc mọi dân tộc thống nhất giữa quyền cá nhân và quyền tập thể
cộng đồng dân tộc được đặt chung trong quyền của quốc gia-dân tộc.
Làm thất bại những âm mưu lợi dụng, chống phá
Trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để lợi
dụng quyền dân tộc tự quyết để đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự
quyết là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để kích động đồng
bào các DTTS ở Việt Nam đứng lên đòi “quyền dân tộc tự quyết”. Chúng ra sức
truyền bá, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ khối đại đoàn kết các
dân tộc ở Việt Nam; kích động các dân tộc chống lại chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước; gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là vùng đồng
bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm điều kiện
trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với
việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong
nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng còn
tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên
ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước Việt Nam từ bên
trong. Lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai, những sơ hở, thiếu sót trong thực
hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; lợi dụng cuộc sống khó khăn của một bộ phận
đồng bào DTTS để vu cáo Nhà nước Việt Nam "phân biệt đối xử, đàn áp người
DTTS", ép người DTTS phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” để hoà nhập với “cuộc
sống văn minh” của người Việt… để kích động, lôi kéo người DTTS biểu tình, bạo
loạn đòi “quyền dân tộc tự quyết, tự quản”.
Chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng
bào các dân tộc vượt biên trái phép, gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ
cho bên ngoài can thiệp. Chúng vận động các tổ chức quốc tế vào các vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nắm tình hình rồi xuyên tạc thực tế, vu cáo Nhà nước Việt
Nam đàn áp người DTTS, vi phạm dân chủ, nhân quyền, qua đó, hòng gây sức ép yêu
cầu Nhà nước Việt Nam phải trao quyền “dân tộc tự quyết” cho người DTTS. Chúng
kích động đồng bào các DTTS trong nước đòi quyền dân tộc tự quyết, thành lập
“Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chămpa” ở Tây Nam Bộ,
“Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... qua đó nhằm hình thành các tổ chức đối lập với Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, như: "Hội
người Mông thế giới", "Hội người Thượng Đề-ga", "Hội những
người miền núi", "Nhà nước Đề-ga độc lập"… tổ chức biểu tình ủng
hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực hơn.
Để phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
hoạt động lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá Việt Nam, cần tăng cường
tuyên truyền để xã hội hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết theo luật pháp quốc
tế và pháp luật Việt Nam. Không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; mở rộng, đa dạng
hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tôn giáo; chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc,
tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Đề cao tinh
thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi
ích chung của đất nước. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án
phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, nhất là đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; tiếp tục bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc. Làm tốt công tác nắm chắc
tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng
dân tộc, quyền dân tộc tự quyết để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống
phá cách mạng. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, bức
xúc trong đồng bào DTTS trên cơ sở pháp luật...
QUỐC AN

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét