Home » vanhoa
Thứ Hai, 9 tháng 4, 2018
Điều làm nên sự vĩ đại ở Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ
Chí Minh được thế giới biết đến là một lãnh tụ đã trở thành huyền thoại ngay từ
khi còn sống trong thế kỷ XX, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn.
Vậy, điều gì đã làm nên sự vĩ đại ở Hồ Chí Minh?
1. Người kết
tinh hồn thời đại, làm thăng hoa dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
Nhiều chính
khách và học giả nước ngoài đã dành những lời tốt đẹp, cao quý, biểu thị sự ngưỡng
mộ và kính trọng nhất để nói về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Trong
con người ấy, là sự hội tụ những gì tinh hoa nhất của thế giới nhân loại và của
dân tộc Việt Nam, đã làm nên tầm cao trí tuệ, tư tưởng, đạo đức và tâm hồn Hồ
Chí Minh. Người mang trong mình phẩm chất bác ái của Đức Chúa Giê-su, lòng từ
bi, vị tha của Đức Phật, trí tuệ của Mác – Lê-nin. Đồng thời, mang tinh thần an
dân và khuyến dân trong tư tưởng của Nguyễn Trãi - nhà nhân văn chủ nghĩa vĩ đại
của Việt Nam ở thế kỷ XV, tâm hồn của đại thi hào Nguyễn Du với nỗi đau nhân thế
trong kiệt tác Truyện Kiều. Để rồi, con người ấy đã trải qua một cuộc đời oanh
liệt, đầy gian khổ, hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, trong sáng và đẹp
đẽ, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập - tự do - hạnh
phúc của nhân dân ta và nhân dân thế giới.
Trên con đường
cách mạng, Hồ Chí Minh đã mẫn cảm và sáng suốt khi xác định rằng, cách mạng trước
hết cần có Đảng lãnh đạo và Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Đảng kiểu mới
của V.I. Lê-nin vào thực tiễn, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục,
rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính. Hồ Chí Minh yêu cầu người
cách mệnh phải giữ chủ nghĩa cho vững, trong Đảng ai ai cũng phải tin, phải
theo chủ nghĩa ấy, lại phải ít lòng ham muốn về vật chất. Có như vậy mới đủ bản
lĩnh đi đến cùng trong sự nghiệp tranh đấu vì lợi quyền và hạnh phúc của nhân
dân. Đảng là một tổ chức cách mạng, chiến đấu hy sinh phục vụ giai cấp, dân tộc
và nhân loại. “Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài”1. Vì vậy, đảng
viên, cán bộ phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu để dân tin và dân theo, “Một
tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn”, v.v.
Trải nghiệm
thực tiễn cách mạng phong phú và sâu sắc, Người còn phát hiện ra quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới - độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, chỉ ra tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Dung dị
mà sâu sắc, Người đã viết: không ai có thể ngăn cản mặt trời mọc thì cũng không
một thế lực nào có thể ngăn cản các dân tộc tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là do Người đặt nền
móng. Người còn là nhà cách tân, có tư tưởng đổi mới và hội nhập quốc tế để
phát triển từ rất sớm; dồn nỗ lực và tinh lực của đời mình vào công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nhất là khi Đảng đã cầm quyền. Trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” (năm 1947), Người đã làm sáng tỏ chủ thuyết xây dựng Đảng cầm
quyền với những điều cốt yếu, hệ trọng nhất từ tư tưởng đến phương pháp và
phong cách, từ đạo đức, nhân cách, lối sống của cán bộ, đảng viên đến văn hóa ở
trong Đảng. Đảng lãnh đạo và cầm quyền bằng khoa học, dân chủ và đạo đức, phải
dựa vào dân mà xây dựng Đảng. Cao cả và thiêng liêng, Người căn dặn: giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, từ Trung ương tới chi bộ như giữ gìn con ngươi
của mắt mình.
Hồ Chí Minh còn là nhà tổ chức thiên tài, đặt công tác đào tạo bồi dưỡng, huấn
luyện cán bộ ở tầm chiến lược, coi đó là công việc gốc của Đảng. Với phương
châm nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, Người chú trọng hành động
và thực hành, suốt đời “dĩ công vi thượng”, “quang minh chính đại”, “tinh thần
đoàn kết” để dân tin, dân phục, dân yêu, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ
thì sự nghiệp cách mạng mới thành công. Sự nghiệp ấy suy đến cùng cũng chỉ vì
dân, làm cho dân được sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc, là chủ và làm chủ
thực sự.
Những chỉ dẫn
thiết thực, giản dị mà sâu sắc của Người đã giúp Đảng ngày càng lớn mạnh, trưởng
thành. Đảng vì Dân mà tồn tại và chiến đấu hy sinh nên Nhân dân một lòng tin tưởng
vào Đảng, đi theo lý tưởng, mục tiêu mà Đảng đã vạch ra, vì độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Nhân
dân tự hào gọi Đảng là Đảng của mình. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, mở ra thời đại Hồ Chí
Minh - thời đại rực rỡ, huy hoàng nhất trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc
ta, thực sự mang tầm vóc vĩ đại, làm thăng hoa dân tộc Việt Nam, từ truyền thống
đến hiện đại. Thời gian càng lùi xa, thực tiễn càng biến đổi và phát triển, ta
càng nhận ra sự sáng suốt, sự tiên liệu đầy mẫn cảm trong tầm nhìn xa trông rộng
của Người. Điều đó càng cho thấy tầm vĩ đại của Hồ Chí Minh, không chỉ là tư tưởng
sáng tạo, gắn liền tư tưởng với phương pháp và phong cách, mà còn là đạo đức, lẽ
sống cao thượng, trọn một đời vì nước, vì dân, tranh đấu, hy sinh và dâng hiến cho
cuộc sống của nhân dân. Sự hy sinh và dâng hiến của Người trọn vẹn và toàn vẹn,
quên mình đến mức hóa thân, bởi thế Hồ Chí Minh vĩ đại và cao thượng.
2. Điều làm
nên sự vĩ đại ở Hồ Chí Minh gắn liền với những bước ngoặt trong cuộc đời và sự
nghiệp của Người
Những bước
ngoặt ấy đã tác động sâu xa tới lịch sử dân tộc thời hiện đại và có sức ảnh hưởng
rộng lớn vào đời sống chính trị thế giới đương đại, làm thay đổi chiều hướng vận
động của lịch sử đất nước, số phận của cả một dân tộc, vị thế và phẩm giá của
con người Việt Nam. Mùa hè năm 1911, người thanh niên đầy nhiệt huyết Nguyễn Tất
Thành mới 21 tuổi, rời bến cảng Nhà Rồng, bắt đầu cuộc dấn thân tìm đường cứu
nước, cứu dân. Cuộc đi đó kéo dài 30 năm, qua các châu lục Á - Âu - Phi - Mỹ,
qua mọi miền đất lạ hơn 30 nước, bằng con đường “vô sản hóa”, lao động - học tập
và tranh đấu để tìm đường, chọn hướng, nhận ra chân lý để rồi trọn đời tận
trung với Nước, tận hiếu với Dân, tận hiến cho Dân tộc và nhân loại. Gần một thập
kỷ (1911 - 1920) qua trường đời thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu
nước và tinh thần dân tộc trở thành người cộng sản, suốt đời đấu tranh vì thắng
lợi của lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ nghĩa. Chính trong bước ngoặt đầu tiên
này, năm 1919 Nguyễn Ái Quốc đã gửi Tám điều yêu sách của dân tộc Việt Nam tới
Hội nghị Véc-xây đòi tự do, độc lập cho nhân dân mình. “Đường cách mệnh” đã được
nhận ra hình hài từ đó để định hình thành tác phẩm lý luận sau này, đặt nền
móng lý luận và phương pháp cho học thuyết giải phóng bằng cách mạng, chuẩn bị
trực tiếp về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời chính đảng cách mạng kiểu
mới ở Việt Nam.
Sự kiện
Nguyễn Ái Quốc, từ người dân của một xứ thuộc địa, mất độc lập chủ quyền lại
trở thành người đồng sáng lập ra Đảng Cộng sản ở chính quốc, vào tuổi 30 là trường
hợp hy hữu của lịch sử. Cũng vào tuổi ấy, C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” với khẩu hiệu hành động “Vô sản toàn thế giới liên hiệp
lại”, được Lê-nin bổ sung (“các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”) và được Nguyễn
Ái Quốc phát triển, “tất cả mọi người lao động đoàn kết lại”, một sự phát triển
với tầm tư tưởng lớn và bằng tư duy độc lập sáng tạo, khoáng đạt. Mười năm sau,
vào năm 1930, ở tuổi 40, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng ta, là tác giả của bản
Cương lĩnh đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bước ngoặt ấy,
là những bước sinh thành thời đại Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Luận cương V.I.
Lê-nin về quyền tự quyết của các dân tộc được Nguyễn Ái Quốc tiếp cận và
thâu thái (năm 1920) đã góp phần quyết định tới bước ngoặt trong hành trình tìm
đường, nhận đường để chọn đường của Người, và “Bản án chế độ thực dân Pháp”, một
tác phẩm lý luận chính trị tầm cỡ của Nguyễn Ái Quốc được viết vào năm 1925.
Hai mươi năm sau (năm 1945), Người khởi thảo và tuyên đọc “Tuyên ngôn độc lập”
tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ở Hà Nội. Người không chỉ khai sinh ra chế độ
dân chủ cộng hòa ở Việt Nam, mà còn tuyên bố sự cáo chung của chủ nghĩa thực
dân Pháp, đưa dân tộc Việt Nam tới tự do và làm chủ.
Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám - một trong những cuộc cách mạng điển hình của thế giới
trong thế kỷ XX - được dẫn dắt và thực hiện bởi thiên tài Hồ Chí Minh và Đảng
do Người sáng lập, rèn luyện. Ba mươi năm của cuộc hành trình (1911 - 1941) vì
độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc để dẫn đến giải phóng 20 triệu người Việt
Nam và xác lập chính thể dân chủ cộng hòa trong ngày độc lập 02-9-1945. Cũng từ
đây, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức trở thành Đảng cầm quyền dưới ngọn cờ tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Vĩ đại và
huyền thoại Hồ Chí Minh, còn ở sự kiện bước ngoặt không thể nào quên, 20 năm
sau “Tuyên ngôn độc lập” (năm 1965) Người viết bức thư để lại cho đồng bào, đồng
chí mà chúng ta gọi là Di chúc. Văn kiện lịch sử thiêng liêng này, Người viết lần
đầu tiên
vào tháng 5-1965, ở tuổi 75, để hằng năm, Người nghiền ngẫm, suy tư, sửa từng
câu, từng chữ và ký thác tất cả vào chúng ta. Người dành cái tối đa cho Dân,
cho Nước và cho Đảng. Người chỉ nói về việc riêng đúng 79 từ trong 1.000 từ.
Trong cái tối thiểu ấy cũng lại đầy ắp tình thương yêu, sự quan tâm, chăm sóc
cho nhân dân, đồng bào của Người. Hạnh phúc của dân là hoài bão, khát vọng một
đời của Hồ Chí Minh. Đó là sự vĩ đại và cao thượng. Ngày lập nước cũng lại
trùng hợp với ngày Người trở về thế giới người hiền, ngày 02-9-1969. Giờ ấy,
phút ấy, Người đã từng viết và sửa Di chúc, đã từng đọc báo, cần mẫn, đều đặn
chăm chút, nâng niu những tấm gương “người tốt, việc tốt” cho đời.
Hai mươi năm
sau ngày ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946), lời của Người như
lời hịch của non sông, “thà hy sinh tất cả, quyết không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ”, Người lại có lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước chống Mỹ xâm lược
(năm 1966) với một thông điệp lịch sử “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Thông điệp ấy cũng là chân lý lớn nhất của lịch sử, là sự lựa chọn đúng đắn nhất,
mãi mãi tỏa sáng ý chí Việt Nam, nhân cách Việt Nam mà Người là điển hình mẫu mực,
trọn vẹn, toàn vẹn nhất. Cuộc đời 79 mùa xuân của Người gắn bó máu thịt với
nhân dân, với đất nước và thời đại, còn có bao nhiêu bước ngoặt như thế nữa. Tất
cả đều quy tụ vào “Ái Quốc” và “Ái Dân” - tên của Người, lấp lánh ánh sáng minh
triết Hồ Chí Minh, sâu thẳm triết lý nhân sinh và hành động Hồ Chí Minh. Mười
năm, hai mươi năm, ba mươi năm có trong những bước ngoặt của Người, đã mở ra
chân trời, triển vọng rạng rỡ, trang sử mới Việt Nam trong thời đại mang tên
Người. Sự hiện diện của Hồ Chí Minh trong lịch sử đã chấm dứt cuộc khủng hoảng
triền miên về đường lối cứu nước của các bậc tiền bối để khai mở “đường cách mệnh”
đến nơi, đúng đắn và triệt để. “Cách mệnh là phá cái cũ lỗi thời, xấu xa, hư hỏng
đổi ra cái mới tiến bộ, phát triển và tốt đẹp”. Người là hiện thân của câu trả
lời đúng đắn, sáng tạo và triệt để, lại kịp thời, đúng lúc trong thực tiễn lịch
sử, chính xác đến kỳ lạ và kỳ diệu trong những tiên tri, dự báo tương lai đến từ
sự mẫn tiệp, thông tuệ của thiên tài tư tưởng Hồ Chí Minh, “tầm mắt đại dương”
và “tâm hồn lộng gió thời đại” Hồ Chí Minh - đó là sự vĩ đại Hồ Chí Minh. Người
sống mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại là vì vậy.
3. Đạo đức
cách mạng trong sáng, lối sống thanh tao, giản dị, bản lĩnh đứng ngoài vòng
danh - lợi để toàn tâm toàn ý phụng sự và dâng hiến cho dân cho nước làm nên sự
vĩ đại Hồ Chí Minh
Đạo đức và
thực hành đạo đức là một điều nổi bật, nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Người đòi hỏi rất cao về đạo đức cách mạng. Theo
Bác, người cách mạng phải đủ cả bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính mới là người
hoàn toàn, thiếu một đức thì không thành người. Lại chính Người nêu gương thực
hành, làm gương mẫu cho đảng viên, cán bộ noi theo. Biết rằng, ở đời “nhân vô
thập toàn” nên Người căn dặn phải suốt đời đấu tranh, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, trau dồi đạo đức cách mạng, thấy rõ cuộc đấu tranh này sẽ có không ít sự
đau đớn ở trong lòng. Phải dùng dân chủ mà chữa trị bệnh quan liêu, tham ô,
lãng phí, phải thực hành văn hóa để chữa thói phù hoa xa xỉ, phải dùng luật
pháp nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm để bảo vệ nhân dân.
Với Hồ Chí
Minh, sự vĩ đại còn thể hiện vô cùng chân thực, cảm động, để lại ấn tượng sâu
xa tận đáy lòng trong mỗi người dân bởi đức khiêm nhường, tình thương mến, sự
ân cần chu đáo, bao dung nhân ái, lối sống giản dị, ứng xử tự nhiên mà tinh tế
của Người. Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét rằng, trong trái
tim mênh mông tình thương của Người, có chỗ cho tất cả mọi người, mỗi cảnh đời,
mỗi số phận. Mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng, mỗi con người có một nỗi đau
riêng. Cộng tất cả nỗi khổ đau đó lại là nỗi khổ đau của bản thân Người. Miền
Nam luôn ở trong trái tim Người. Giữa cơn đau quặn thắt trái tim, Người vẫn hướng
tới đồng bào, đồng chí, “không thể bỏ dân mà đi được”, lắng nghe tin chiến thắng
nơi tiền tuyến, lo lắng cho đời sống của những người nông dân nghèo khổ nơi đê
vỡ, lũ lụt tràn về, cũng không quên nhắc nhở ngành giáo dục lo việc trường sở,
học hành cho các cháu. Người từ chối chưa nhận huân chương với lời giải thích rằng,
đợi miền Nam giải phóng, đồng bào miền Nam thay mặt cả nước, gắn huân chương
cho Người cũng chưa muộn. Và đến lúc ra đi, trên ngực áo của Người không một tấm
huân chương. Người nói lời cảm động tận đáy lòng “mới chỉ đi đến nơi mà chưa về
đến chốn”. Người tự thấy mình chưa xứng đáng để nhận sự tôn vinh. Người sống vì
dân và chỉ một lòng một dạ vì dân, chỉ canh cánh một nỗi niềm chưa được tận mắt
chứng kiến ngày cách mạng miền Nam toàn thắng. Giản dị là đặc trưng nổi bật cho
lối sống và phong cách của Người. Người giản dị chứ không giản đơn. Bởi thực sự
vĩ đại, nên giản dị ở Người như một lẽ tự nhiên làm lay động mỗi tấm lòng. Đó
là giản dị của bậc vĩ nhân, hiền triết. Thực sự vĩ đại nên Người giản dị thực sự,
tất cả đều toát lên sự gần gũi thân thương của con người giữa đời thường. Phải
trải nghiệm cuộc sống vô cùng phong phú, sâu sắc, thành ra cốt cách, bản lĩnh
văn hóa mới đạt tới sự giản dị ấy.
Vĩ đại Hồ
Chí Minh còn bởi trước hết Người là một con người và cuối cùng vẫn là một con
người, dù Người được tôn vinh, ngưỡng mộ ở bậc thánh nhưng không siêu thực mà ở
trong lòng dân, trong cuộc sống của dân. Đại văn hào Pháp Vích-to Huy-gô từng
viết: “trước một trí tuệ uyên bác thì tôi cúi đầu bái phục, trước một nhân cách
cao cả thì tôi quỳ gối tôn thờ”. Hoàn toàn có thể đem những lời ngợi ca, tôn
vinh ấy ứng vào Hồ Chí Minh - con người Việt Nam đẹp nhất, con người mà sự nghiệp,
di sản, đạo đức và nhân cách đã thuộc về dân tộc và thế giới nhân loại. Lịch sử
luôn tường minh. Chân lý luôn giản dị. Tình thương yêu, niềm xúc động, sự tôn
vinh mà cả dân tộc và thế giới dành cho Người mãi mãi là nguồn cổ vũ, là động lực
tinh thần cho phát triển. Cái gì đã là máu thịt thiêng liêng, giá trị nào đã
“làm tổ” trong tâm hồn con người mọi thế hệ thì mãi mãi bền vững, có sức sống bền
vững. Hồ Chí Minh nằm trong trường hợp đó, trong tâm hồn Việt Nam, trong trái
tim nhân loại.
Di sản Hồ
Chí Minh - từ tư tưởng, phương pháp và phong cách đến đạo đức và tấm gương đạo
đức của Người đang là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đi tới đích cuối cùng trên con đường lớn của lịch sử vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
GS, TS.
HOÀNG CHÍ BẢO, Hội đồng Lý luận Trung ương

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét