Home » thoisu
Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018
Không thể xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975
Chiến thắng 30-4-1975 là một sự kiện trọng đại có tầm ảnh
hưởng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc trong thế kỷ XX. Đó là thắng lợi
của chính nghĩa trước bạo lực, cường quyền; là biểu tượng sáng ngời về ý chí bất
khuất, khát vọng hòa bình, tự do của dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Đó
là lịch sử, mà lịch sử chỉ hiện hữu sự thật, không thế lực thù địch nào có thể
xuyên tạc.
Chiến thắng 30-4 đã qua đi 40 năm. Nhưng ý nghĩa, giá
trị to lớn của nó vẫn tồn tại mãi với thời gian, nhất là đối với các dân tộc đã
và đang nỗ lực đấu tranh vì sự tiến bộ, văn minh, hạnh phúc. Ca ngợi, đánh giá
tích cực đối với sự kiện này, luôn là chiều hướng chủ đạo, là điều được thế giới
quan tâm, thừa nhận trong suốt những năm
qua. Nhưng nực cười thay, bên cạnh sự đánh giá khách quan, trung thực đó, vẫn
còn những tiếng nói lạc lõng cố tình phủ định sự thật lịch sử với động cơ, mục
đích đen tối, định kiến, thù địch. Không những tìm cách cào bằng vai trò của
các bên tham chiến, họ còn trắng trợn ngụy biện, đổi trắng thay đen giữa kẻ đi
xâm lược đã từng gây vô vàn tội ác cho dân tộc Việt Nam với những người đã
không tiếc máu xương hy sinh vì hoà bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
Chiến tranh đã lùi xa, sự phân định giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa chiến
thắng và thất bại đã rõ ràng. Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện của nhiều quốc gia; trong đó, có các quốc gia từng trực tiếp hoặc
tham gia chiến tranh xâm lược ngày đó, nay cùng hợp tác, phát triển. Thế nhưng,
ở nơi này hay nơi khác, trong một thiểu số nào đó, mỗi khi đến dịp 30-4, họ đều
tìm cách khuấy đảo lên sự thù hận với các lý lẽ, luận điệu hoàn toàn phi lý. Gần
đây, người ta thường thấy không ít sự ngụy biện, sống sượng xung quanh vấn đề
tính chất cuộc chiến tranh. Sự can thiệp trắng trợn, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ
vào chủ quyền của dân tộc Việt Nam được coi là một hành động để bảo vệ nền dân
chủ. Những người theo chân Mỹ chia cắt đất nước, tàn sát đồng bào mình được coi
là một “sự lựa chọn chính trị khác”, vì một “lý tưởng khác”. Còn có cả sự đặt
điều lấp liếm hành động xâm lược, rằng: miền Bắc xâm lược miền Nam hay cuộc chiến
tranh ở Việt Nam từ 1954 đến 1975 chỉ là nội chiến. Có người vì “thương xót”
cho hàng triệu sinh linh đã ngã xuống trong chiến tranh còn cho rằng: làm gì phải
phát động chiến tranh, chỉ cần đợi đến lúc nào đó thực dân, đế quốc rồi cũng phải
trả lại chủ quyền đất nước, v.v. Thật lố bịch! Sự ngụy biện tùy tiện, đổi trắng
thay đen còn diễn ra ở một số người tự xưng là “có tâm với nước, với dân”, tuy
nhiên chân lý chỉ có một. Lịch sử và sự kiểm nghiệm lịch sử là thước đo chân lý
chuẩn xác nhất, bác bỏ mọi xuyên tạc.
Ngược dòng lịch sử sẽ thấy, một sự thật hiển nhiên là
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Mỹ khởi xướng, với sự tiếp tay, phản bội
dân tộc của ngụy quyền Sài Gòn đã thất bại thảm hại vào tháng 4-1975 là một tất
yếu không tránh khỏi. Nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn tới thất bại, trước hết,
đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô cùng tàn bạo. Từ lâu, Mỹ đã coi miền
Nam Việt Nam là địa bàn chiến lược, để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản
tại Đông Nam Á. Họ cần có một chính phủ chống Cộng, biết nghe lời và phục vụ đắc
lực cho mưu đồ bá chủ thế giới. Thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa
bình ở Việt Nam và Đông dương, trong khi Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cố
gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình, thì ngay từ đầu, Mỹ và chế độ Ngô Đình
Diệm, sau đó là chế độ Nguyễn Văn Thiệu, đã rắp tâm tìm mọi cách chia cắt, phá
hoại công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước. Các yêu cầu đàm phán, tiến tới Tổng
tuyển cử, thống nhất hai miền Nam - Bắc, liên tiếp được Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa đưa ra và đều bị từ chối vào tháng 6, tháng 7-1957, tháng 3, tháng
12-1959 và tháng 7-1960. Thay vào đó là
các chiến dịch lê máy chém khắp miền Nam, đàn áp khốc liệt những người kháng
chiến cũ, những đảng viên Cộng sản, những ai mong muốn thống nhất đất nước. Tiếp
đó là các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “Chiến tranh cục bộ”
(1965 – 1966) và “Việt Nam hóa chiến tranh (1969 – 1973) tàn phá miền Nam, tiêu
diệt phong trào đấu tranh của quần chúng, nhằm thực hiện mưu đồ của chúng.
Đã từng phải chịu đựng những thử thách, hy sinh bởi
chiến tranh, chia rẽ vùng miền và sự thống trị của ngoại bang, nên hơn ai hết,
người dân Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước.
Nhân dân và chính phủ Việt Nam đã tranh thủ mọi thời cơ để gìn giữ, bảo vệ những
giá trị đó, nhưng Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã chà đạp, phá hoại những nguyện vọng
thiêng liêng chính đáng của mình, buộc chúng ta không còn lựa chọn nào khác phải
tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong hơn 20
năm, vượt qua vô vàn gian khổ, hy sinh, dân tộc Việt Nam đã đương đầu thắng lợi
trước một thế lực đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng hậu hàng đầu thế giới.
Có nhiều nhân tố đã góp phần làm nên sự tích thần kỳ ấy; trong đó, việc phát
huy cao độ truyền thống yêu nước và giương cao ngọn cờ chính nghĩa, đường lối độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, khát vọng hòa bình, giải phóng dân tộc của nhân
dân ta là một trong những nguyên nhân mang tính quyết định. Lý giải nguyên nhân
thất bại của Mỹ ở Việt Nam có nhiều, song, lý giải được đề cập nhiều nhất là do
tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh mà họ tiến hành. Giáo sư Trần Trung Ngọc,
một Việt kiều sinh sống tại Mỹ trong bài “Nhìn lại hai cuộc chiến ở Việt Nam”
đã cho rằng: “Mỹ không có bất cứ lý do chính đáng nào để can thiệp vào Việt
Nam, một nước nhỏ, nghèo, chưa phát triển và không có bất cứ khả năng nào có thể
gây hại cho nước Mỹ. Do đó, việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam là bất chấp dư luận,
bất chấp cả công pháp quốc tế, nghĩa là: “dùng cường quyền thắng công lý” của một
cường quốc tự cho mình có quyền can thiệp vào bất cứ đâu mà Mỹ muốn”. Ngay cả Mắc
Na-ma-ra, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã cay đắng thừa nhận: “Chúng
ta đánh giá thấp sức mạnh tinh thần dân tộc của họ (Việt Nam)”; đồng thời, bày
tỏ sự thất vọng về “sự dốt nát sâu sắc” của Mỹ về lịch sử, văn hoá và chính trị
của nhân dân Việt Nam. Theo Frances Fitzgerald: “Chiến thắng của họ là chiến thắng
của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội
chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, là sự khẳng định
nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản
bội”.
Cuộc chiến tranh do Mỹ và tay sai tiến hành ở Việt Nam
được cho là phi nghĩa, trái đạo lý, bị lên án không phải chỉ vì thực chất mục
đích của nó, vì sự hao người, tốn của, mà còn bởi nó đã thể hiện rõ tính chất
tàn bạo, vô nhân tính. Đó là một trong các cuộc chiến tranh tổn hại nhất trong
lịch sử nước Mỹ, với tổng chi phí lên tới 686 tỉ đô la (tính theo thời giá năm
2008). Đó là khoản tiền lớn nhất mà Mỹ đã chi cho chiến tranh, chỉ sau đại chiến
Thế giới thứ 2. Theo ông Nguyễn Tiến Hưng - Tổng trưởng kế hoạch của Việt Nam Cộng
hòa (giai đoạn 1973 - 1975): làn sóng viện trợ Mỹ trút vào miền Nam Việt Nam thời
điểm dâng cao nhất kéo dài từ năm 1966 đến năm 1970 lên tới 25 tỉ đô la mỗi
năm. Các chính sách của chế độ Sài Gòn đưa ra thường hay được tính toán dựa
theo dự phỏng xem số tiền đô la được Mỹ sẽ bơm vào nền kinh tế là bao nhiêu, sự
lệ thuộc của chế độ Sài Gòn vào Mỹ ở mức độ nào. Cùng với Quân đội Mỹ và ngụy
quyền Sài Gòn, có thời điểm còn có sự tham gia của quân đội 5 nước đồng minh trực
tiếp và 29 nước khác gián tiếp với khoảng 6 triệu lượt binh sĩ tham chiến.
Trong khoảng thời gian đó, Mỹ, ngụy đã tổ chức nhiều chiến dịch lùng sục, càn
quét và thảm sát tại khắp nơi ở miền Nam; đồng thời, còn tiến hành 2 cuộc chiến
tranh phá hoại bằng đường không ở miền Bắc, tàn phá nặng nề các công trình giao
thông, kinh tế, trường học, bệnh viện… nhằm “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ
đá”. Việt Nam đã trở thành bãi chiến trường để Mỹ phô diễn, thử nghiệm hầu hết
các loại phương tiện, vũ khí chiến tranh; trong đó, có nhiều loại hiện đại, tối
tân lần đầu tiên được sử dụng. Máy bay Mỹ đã ném xuống Việt Nam khoảng 7,85 triệu
tấn bom, gấp 3 lần số bom sử dụng trong chiến tranh Thế giới 2; rải xuống khắp
miền Nam Việt Nam khoảng 75 triệu lít chất độc hóa học đi-ô-xin, v.v. Cuộc chiến
tranh đã cướp đi nhiều triệu sinh mạng, nhưng số người thương vong, tàn tật, chịu
di chứng trên nhiều mặt ở các bên tham chiến còn nhiều hơn gấp bội. Mỹ còn áp dụng
cả những biện pháp tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh thông thường không cho
phép, như: sử dụng chất độc da cam/đi-ô-xin, dùng máy bay B52 ném bom dải thảm
hủy diệt các khu dân cư tập trung, v.v. Bên cạnh sinh mạng con người, hậu quả
nghiêm trọng về chính trị, kinh tế, môi trường, phải mất nhiều thời gian, công
sức mới khôi phục được. Điều đáng nói nhất là những di chứng về mặt xã hội đã
gây ra sự chia rẽ sâu sắc, lâu dài trong lòng dân tộc Việt Nam và ngay cả trong
lòng nước Mỹ. Sự hận thù, lòng tự ti, mặc cảm là những cản trở lớn cho sự hòa hợp
dân tộc sau chiến tranh và cả những giọt nước mắt muộn màng về những tội ác của
mình gây ra đối với đồng bào, dân tộc mình. Tất cả những điều đó là hậu quả của
cuộc chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ gây ra và là bài học cảnh tỉnh cho những ai
còn có tư tưởng bá quyền, cho mình đứng trên các dân tộc khác.
Chiến thắng 30-4-1975 cho thấy một chân lý: không phải
bao giờ sức mạnh của cường quyền bạo lực và đồng tiền cũng đè bẹp được chính
nghĩa. Đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, Việt Nam là đại diện
chân chính cho chính nghĩa, cho nên trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu
nước, nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình ủng hộ to lớn cả về vật chất và
tinh thần của bạn bè quốc tế và lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên
toàn thế giới. Tính chất phi nghĩa, tàn bạo của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn bộc lộ
rõ trong chiến tranh, đã ngày càng bị thế giới, trong đó có cả nhân dân tiến bộ
Mỹ lên án, phản đối. Trong thời gian xảy ra chiến tranh, ở Mỹ đã có hơn 200 tổ
chức chống chiến tranh, có 16 triệu trong tổng số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi
quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì, chống
chiến tranh ở Việt Nam, không chịu nhập ngũ. Bản chất phụ thuộc theo đuôi Mỹ của
chế độ Sài Gòn và mối quan hệ giữa họ cũng ngày càng được phơi bày. Nguyễn Văn
Thiệu - người đứng đầu chế độ Sài Gòn - khi còn đương nhiệm đã công khai “lý tưởng”
của chính quyền ông ta: “Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống Cộng”, “nếu Hoa
Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một
năm mà chỉ sau 3 giờ chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc lập”. Trước đó, để ép chính
quyền Thiệu phải ký hiệp định Pa-ri (tháng 01-1973), R. Ních-xơn, Tổng thống Mỹ
cũng từng trao đổi với thuộc cấp của mình rằng: “Tôi không biết sự đe dọa của
chúng ta có đi quá xa không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì, kể cả những điều
không hay ho gì như cắt cái đầu của Thiệu”. Trong diễn văn từ chức vào thời điểm
không thể cứu vãn nổi sự sụp đổ (ngày 21-4-1975), Nguyễn Văn Thiệu đã không tiếc
lời chỉ trích Mỹ: “là một đồng minh thất hứa, thiếu công bằng, thiếu tín nghĩa,
vô nhân đạo, trốn tránh trách nhiệm,...”. Những điều đó, thật khác xa với những
gì mà trước đó họ thường rêu rao, tâng bốc nhau, mà không ít người lầm tưởng
như họ là “đồng minh”, là đại diện của “chính nghĩa, quốc gia, dân tộc”.
Sau hơn 20 năm chiến tranh và 40 năm sau chiến tranh,
sự thật và chân lý đã được lịch sử kiểm nghiệm, ánh sáng soi rọi. Những sự ngụy
biện, xuyên tạc thực tế, nhằm phục vụ cho một mưu đồ nào đó, không những chỉ là
ảo tưởng, mà còn là tội lỗi với lịch sử, với các thế hệ ông cha đã không tiếc
máu xương hy sinh cho sự yên bình và hạnh phúc của đất nước này. Bất cứ dân tộc
nào có tự trọng trên thế giới, đều có quyền tự hào về truyền thống lịch sử đánh
giặc ngoại xâm, gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc của mình. Chiến thắng 30-4-1975 đã kết
thúc sự chia rẽ Bắc - Nam, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài trên 100
năm của thực dân, đế quốc trên đất nước ta, nước nhà độc lập, non sông thu về một
mối, đã trở thành một trang vàng chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc để
các thế hệ hôm nay và mai sau gìn giữ và phát huy.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét