Home » thoisu
Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018
Thời cơ và thách thức trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế -
Dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế
giới đương đại đang có những chuyển biến, tác động sâu sắc trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội; trong đó, sự dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông và sự
điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với
các nước vừa và nhỏ.
1. Sự chuyển
dịch quyền lực và sự điều chỉnh chiến lược
Thế giới đã, đang chứng kiến ba cuộc chuyển giao quyền
lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự
đến kinh tế, văn hóa – xã hội. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy
của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, dưới tác động của cách mạng
công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ hai là sự trỗi
dậy của Mỹ từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai (1945), làm cho Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối
thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh
mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ, dẫn tới sự chuyển dịch quyền
lực lần thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực
từ Tây sang Đông, dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước
lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế,
làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
Trong bối cảnh như vậy, hầu hết các nước, nhất là những nước lớn có sự điều chỉnh
chiến lược, nhằm tranh giành ảnh hưởng, khẳng định vị thế của mình.
Với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, Mỹ tiếp
tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng,
điều chỉnh chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách
thức “ngôi vị số 1” của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền
Đô-nan Trăm vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên
thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở
lại”, đảm bảo cho họ vẫn là quốc gia đặt ra “luật chơi” trong quan hệ quốc tế.
Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm
phát triển, đang mở rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc
khu vực và quốc tế. Hiện nay, họ đang triển khai nhiều biện pháp, như: tăng thực
lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động
ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh
hưởng với Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh
thực thi sáng kiến “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nền kinh
tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ
chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Sự phát triển đó dẫn đến mâu
thuẫn, căng thẳng, cọ xát giữa Trung Quốc với Mỹ, diễn ra tại nhiều khu vực
trên thế giới, nhưng ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo
hướng ngày càng tăng.
Đối với Nga, Tổng thống V.I. Pu-tin đẩy mạnh các hoạt
động nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và
trên quốc tế, nhất là trước sự kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây, từ sau khi Nga
sáp nhập Crưm. Điển hình là, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn
công và giành nhiều thắng lợi trong việc không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo
tự xưng (IS) ở Xy-ri. Điều đó chứng tỏ, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế,
nhưng Nga vẫn là một cường quốc, có đủ lực để sẵn sàng bảo vệ lợi ích, đồng thời
buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trò của mình khi giải quyết những vấn đề
trên thế giới.
Nhiều dự báo cho thấy, đến năm 2020, Nhật Bản vẫn là
cường quốc kinh tế thế giới nhưng nhiều khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị
trí số 3. Vì vậy, nhằm duy trì vị thế của mình, trở thành một cường quốc có ảnh
hưởng cả về kinh tế, chính trị, quân sự trong khu vực và trên thế giới, Chính
phủ Nhật Bản cho tiến hành sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ ràng buộc nội bộ để tăng
quyền tự do hành động trong một số vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Đồng
thời, phát huy công cụ “ngoại giao kinh tế”, tăng cường quan hệ đồng minh, liên
kết chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm với Mỹ trong những vấn đề quốc tế; tập
trung xử lý quan hệ với Trung Quốc, nhất là những căng thẳng trong tranh chấp
biển, đảo; tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo để có vai
trò lớn hơn.
Những năm gần đây, Ấn Độ có sự phát triển mạnh, nhiều
khả năng vượt lên thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Trong chiến lược của mình, Ấn
Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung
Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn; tiếp tục khẳng định
ảnh hưởng ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương; đẩy mạnh chiến lược “hướng Đông”, gia
tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển và bảo vệ trật tự biển.
Còn đối với EU, đang hướng vào xử lý các vấn đề nổi cộm
của khối, như: Brexit, khủng hoảng nợ công, nhập cư, chống khủng bố, v.v. Vì vậy,
sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng
giảm. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác,
trong đó có ASEAN.
Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ
và phát huy vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ
trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế
hoạch hợp tác trên 3 trụ cột: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; thu hẹp khoảng
cách phát triển, tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; đẩy mạnh quan hệ
đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực, trong đó có EU.
Bên cạnh đó, các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền
thống; nhất là, trào lưu dân túy và xu hướng bảo hộ đang gây ra một số tác động
khá tiêu cực trong quan hệ quốc tế. Nó cổ vũ cho việc bảo vệ lợi ích cục bộ của
mỗi quốc gia; chống liên kết, hội nhập quốc tế, hạn chế liên kết kinh tế, giảm
sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương. Do đó, làm tăng sự va chạm về lợi
ích giữa các quốc gia; tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế,
thương mại, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh
thương mại, tỷ giá. Điển hình là việc ông Đô-nan Trăm giành thắng lợi trong bầu
cử Tổng thống Mỹ, đã đánh dấu lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối dân
túy lên nắm quyền ở nước này. Với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”, chính phủ Mỹ đã
thực thi các chính sách: hạn chế người nhập cư, rút khỏi một số hiệp định,… nhằm
bảo hộ sản xuất và quyền lợi của nước Mỹ.
Tình hình trên cho thấy, sự cạnh tranh quyền lực, lợi
ích và vị thế chiến lược giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc và
Nga đang diễn ra ngày càng quyết liệt, tác động nhiều chiều đến đời sống quốc tế,
cả tích cực và tiêu cực, tạo ra thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và
nhỏ.
2. Thời cơ và
thách thức đối với các nước vừa và nhỏ
Về thời cơ. Có một điểm chung tích cực là, trong tuyên
bố của mình, các nước đều hướng tới xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và
phát triển, không sử dụng vũ lực trong giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp. Điều
này “chí ít” tạo lòng tin, môi trường hòa bình để các quốc gia, dân tộc “yên
tâm” đẩy mạnh hợp tác, xây dựng đất nước phát triển. Nhằm tạo ảnh hưởng trên thế
giới, các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam, sẽ trở thành đối tượng lôi
kéo, tranh giành của các nước lớn, không những về chính trị mà còn về kinh tế.
Như vậy, vai trò các nước vừa và nhỏ ngày càng tăng, nếu các nước biết tận dụng
thời cơ này, củng cố đoàn kết, tăng cường tiếng nói trong đời sống chính trị quốc
tế, cùng nhau đưa ra những “luật chơi” để đỡ bị thiệt thòi, công bằng hơn, thì
các nước lớn sẽ phải có những nhượng bộ, tuy không lớn. Theo đó, tiếng nói, vị
thế của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế, giải quyết những vấn đề toàn
cầu được tôn trọng. Đồng thời, tạo cơ hội mở rộng quan hệ với các nước lớn,
không nghiêng hẳn về bên nào, không bị lệ thuộc vào nước lớn nào.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cục diện khu vực
mới với sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự
dính líu ngày càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới
đã mở ra thời cơ để các nước trong khu vực phát triển quan hệ với cả Trung Quốc
và Mỹ cũng như với các cường quốc khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho
tăng cường xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương nói chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Trong bối cảnh đó, mặc dù ASEAN còn có không ít khó
khăn và hạn chế, nhưng nhiều khả năng các nước này sẽ tiếp tục là nhân tố thúc
đẩy hợp tác khu vực. Bởi: Thứ nhất, sự nghi kỵ và thiếu niềm tin chính trị giữa
các nước lớn tạo điều kiện cho ASEAN đóng vai trò “trung tâm” trong việc xây dựng
các cơ chế hợp tác khu vực. Các nước lớn sẽ dễ dàng hơn trong việc xem xét các
cơ chế hợp tác, đối thoại do ASEAN khởi xướng, điều phối. Thứ hai, thành công của
từng nước thành viên ASEAN trong sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng hiện
đại hóa; nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực làm cho ASEAN trở thành một
trong những tổ chức có vai trò quan trọng đối với trật tự ở khu vực Đông Á. Thứ
ba, ASEAN đã nhất trí xây dựng Cộng đồng với ba trụ cột từ cuối năm 2015, làm
cho hợp tác sẽ đi vào thực chất hơn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để ASEAN
đóng vai trò hạt nhân trong hợp tác với các nước lớn. Do cạnh tranh chiến lược
với nhau, nên các nước lớn đều ủng hộ vai trò của ASEAN trong nỗ lực xây dựng
thể chế hợp tác khu vực. Các Diễn đàn ARF, ADMM+, Shang-ri-La,... là những cơ
chế hợp tác - dù còn một số hạn chế - được xem là không thể thay thế ở châu Á -
Thái Bình Dương. Nói cách khác, ASEAN - một khối các nước vừa và nhỏ - được các
nước lớn ủng hộ, đang đóng vai trò thúc đẩy, chi phối tiến trình, hợp tác khu vực,
tạo nên đặc điểm quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương. Đây là thời cơ thuận lợi
để các nước trong khối đẩy mạnh hợp tác, phát triển.
Vềthách thức. Những biến động trong một thế giới toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra cho các nước vừa và nhỏ nhiều thách thức, nhất
là việc giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế. Hầu hết các nước vừa và
nhỏ là những nước đang hoặc chậm phát triển, rất cần sự đầu tư, chuyển giao
công nghệ, viện trợ,... của các nước phát triển, vì vậy dễ dẫn tới bị lệ thuộc
vào một cường quốc nhất định về kinh tế. Từ lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến lệ
thuộc về chính trị, bị chi phối, thao túng, không còn giữ được độc lập, tự chủ
trong quyết định các vấn đề nội bộ cũng như quan hệ quốc tế. Đó có lẽ là thách
thức gay gắt đối với các nước vừa và nhỏ hiện nay.
Một thách thức khác đối với các nước vừa và nhỏ là phải
tạo thế “cân bằng” tương đối trong quan hệ với các nước lớn, không quá thiên về
bất kỳ nước lớn nào để tránh trở thành nguyên nhân đối đầu giữa các cường quốc,
dẫn đến phải hứng chịu xung đột vũ trang và chiến tranh. Thực tiễn cho thấy,
khi quyền lợi giữa các nước lớn bị cọ xát, có thể xảy ra xung đột, thì các nước
lớn tìm cách chuyển hóa xung đột ấy sang các nước vừa và nhỏ. Nói cách khác, nước
lớn sẽ tìm cách tiến hành “chiến tranh ủy nhiệm” như trong thế kỷ XX tại các nước
vừa và nhỏ, nhất là ở nơi tập trung cao những mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn.
Bên cạnh đó, việc phải tìm cách giải quyết các vấn đề
an ninh phi truyền thống (thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc
gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước,...)
cũng như khắc phục những hệ lụy do các chính sách theo chủ nghĩa dân túy và xu
hướng bảo hộ gây ra những thách thức không chỉ về nhân lực, vật lực, tài lực,
mà còn phải có cách hiểu, ứng xử mới về khái niệm “chủ quyền quốc gia” thời kỳ
hội nhập quốc tế trong bối cảnh các quốc gia ngày càng phụ thuộc nhau sâu sắc
hơn. Những thách thức đó, vẫn đã, đang tiềm ẩn những yếu tố có thể dẫn đến biến
động phức tạp, phạm vi rộng lớn và nhiều hệ lụy to lớn hơn đối với vấn đề hòa
bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Vì vậy, nắm bắt thời cơ, khắc phục
những thách thức nhằm tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy sự phát triển, ngăn
chặn, dập tắt những mầm mống gây ra biến động, xung đột vũ trang, đòi hỏi các
nước vừa và nhỏ phải có đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp.
Đối với nước ta, nhận thức đúng về xu thế của thời đại
và cục diện thế giới, khu vực, Đảng và Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và có
quyết sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia – dân tộc. Nhờ đó,
chúng ta đã tận dụng được thời cơ, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển, đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nổi bật là, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và
tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ
đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao, v.v. Những thành tựu đó đã tạo tiền đề, nền
tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới. Nhằm nắm bắt thời cơ, hạn chế thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa
phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn,
là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ
sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển
đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất
nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới”.
GS, TS. VŨ VĂN HIỀN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận
Trung ương

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét