Home » thoisu
Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2018
Việt Nam bảo đảm và thúc đẩy quyền của dân tộc thiểu số
Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng chính sách dân tộc, đặc
biệt là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Việt Nam là quốc gia với 54 dân tộc cùng chung sống. Với
tỷ lệ dân số không đồng đều, 53 dân tộc ít người chỉ chiếm 14,3% dân số, khoảng
hơn 12,3 triệu người trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam. Việc các dân tộc,
dù ít hay nhiều người, chung sống bình đẳng như anh em ruột thịt trên đất nước
Việt Nam, là một chỉ dấu về sự đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng chính sách dân tộc, đặc
biệt là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc; quan tâm chăm lo, tạo điều kiện
tốt nhất để đồng bào các dân tộc phát triển và thụ hưởng các quyền lợi được
pháp luật ghi nhận.
Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Quyền bình đẳng của các dân tộc được ghi nhận và khẳng
định trong các bản Hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ. Mới đây nhất, Hiến
pháp năm 2013, bản hiến pháp nâng tầm chế định về quyền con người, quyền công
dân, khi đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc, khẳng định: “Nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển”. Hiến pháp năm 2013 nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc. Cũng theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực,
cùng phát triển với đất nước” .
Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc trong
Hiến pháp được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam,
được thể chế và cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật.
Các quy định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc còn
được thể chế hóa bằng chế định về Hội đồng Dân tộc, với nhiệm vụ nghiên cứu và
kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi
hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trong Chính phủ Việt Nam có một
cơ quan cấp bộ là Uỷ ban Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc.
Tại Việt Nam, công dân là dân tộc thiểu số được bảo đảm
quyền tham gia hệ thống chính trị, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử
vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy, số lượng đại biểu Quốc hội
là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm
kỳ Quốc hội liên tiếp gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số
chiếm từ 15,6% đến 17,27%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân
là 14,35%.
Ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển
kinh tế - xã hội
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam triển khai nhiều
chính sách hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện quyền bình đẳng, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các dân tộc. Điển hình là: Chương trình hành động 122 của Chính phủ về Công tác
Dân tộc; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về Giảm nghèo bền vững; Chương
trình 135 về Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn; Quyết định
132 ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, giải
quyết đất sản xuất và đất ở; Quyết định 134
hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở và các nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất và
đời sống cho đồng bào nghèo. Chính phủ cũng có chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ
nghèo; chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số…
Nhờ những chính sách ưu tiên này, tình hình kinh tế,
xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt. Đến nay, tổng
số hộ nghèo người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 5,97% tổng số hộ người dân tộc thiểu
số trong cả nước. Chất lượng cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số không
ngừng được nâng cao. Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
của đồng bào được đầu tư xây dựng. Đến nay, 100% xã có trạm y tế và cán bộ y tế,
100% số huyện có trung tâm y tế và bác sỹ; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
giảm xuống dưới 25%. Một số dịch bệnh trước đây phổ biến ở vùng dân tộc thiểu số
và miền núi được ngăn chặn và đẩy lùi.
Quyền của dân tộc thiểu số là một trong những quyền cơ
bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị, được luật pháp Việt Nam
công nhận. Trên thực tế, đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng có nhiều điều kiện
thuận lợi để vươn lên phát triển về mọi mặt, đóng góp vào sự nghiệp chung của đất
nước. Đây chính là những minh chứng cụ thể trong bảo đảm và thúc đẩy quyền của
dân tộc thiểu số nói riêng và quyền con người nói chung tại Việt Nam.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét