Home » thoisu
Thứ Tư, 13 tháng 6, 2018
Quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin với nghĩa vụ công dân
Khung pháp
luật của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông
tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với luật quốc
tế về quyền con người. Trong đó, quy định rõ quyền, nghĩa vụ và việc hạn chế
quyền này của công dân trong trường hợp cụ thể, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia -
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Ở Việt Nam,
“quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình” đã được quy định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2013) và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí
(2016), Luật Tiếp cận thông tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày
15-07-2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và
thông tin trên mạng,… và thực thi nghiêm túc, tạo không khí dân chủ trong xã hội2.
Điều đó khẳng định và thể chế hóa quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản
hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí, v.v. Quyền tiếp cận
thông tin của công dân được quy định rộng rãi hơn; đó không chỉ là một quyền thụ
động do cơ quan nhà nước công khai thông tin theo nhận thức của mình, mà còn là
quyền chủ động, được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng. Trên không
gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí,
tiếp cận thông tin. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên
internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ
tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng
xã hội, v.v.
Tuy nhiên,
cũng như các quyền khác của con người, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thông tin phải do pháp luật quy định và trong khuôn khổ
pháp luật; quy định rõ mối quan hệ giữa quyền với nghĩa vụ công dân; “không được
xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Vì thế, việc hạn chế các quyền này “theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng” là một tất yếu. Những hành vi đăng, phát thông
tin xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong
nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc,
anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của
cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,... đều bị pháp luật xử lý. Đi
liền với quyền tiếp cận thông tin là những quy định về phân loại những thông
tin mà người dân được tiếp cận và những thông tin cơ quan, tổ chức không được
phép cung cấp. Như vậy, “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”5;
“nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt” hoặc “một số hạn chế nhất định” theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoàn toàn tương thích, phù hợp với luật quốc tế về quyền
con người.
Hiện nay,
quyền tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam không những được bảo đảm tốt mà còn
là nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong
xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn được báo chí phanh phui, trước khi cơ quan chức
năng phát hiện, như: vụ án Trịnh Xuân Thanh bắt nguồn từ bài báo “Xe tư gắn biển
xanh” là một minh chứng. Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ
quốc tham gia tích cực việc giám sát, phản biện đối với chính sách của Nhà nước.
“Quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới”, tham gia phản biện,
giám sát của cá nhân, tổ chức được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng, khuyến khích.
Tuy nhiên, vấn đề là phản biện ở đâu và động cơ phản biện như thế nào để đảm bảo
tính khách quan; tránh hiện tượng “bôi đen” xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng gây tổn
hại cho người dân, xã hội và đất nước.
Những năm gần
đây, xuất hiện cái gọi là “đấu tranh bất bạo động”, “bất tuân dân sự”, “hội chứng
đám đông” của một số “người bất đồng chính kiến”, v.v. Những hành vi vi phạm
pháp luật Việt Nam của những “người bất đồng chính kiến” được các hãng thông tấn,
báo chí phương Tây “tăng âm”, phát tán với các bình luận bao che, cổ súy cho
các hành vi phạm tội của họ với luận điệu lặp đi, lặp lại rằng: Việt Nam đang
“bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet”; “vi phạm quyền con người”,
v.v. Điều này hoàn toàn phi lý và ngang ngược. Vì, pháp luật Việt Nam không có
quy định về cái mà báo chí phương Tây gọi là những “người bất đồng chính kiến”.
Do đó, cũng không có quy định pháp luật nào về tội danh đối với “người bất đồng
chính kiến”; không có quy định nào về những ý kiến “bất đồng” hay ý kiến khác với
Nhà nước là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số người lợi dụng
quyền tự do ngôn luận, tự chụp cho mình cái mác “người bất đồng chính kiến” để
viết, phát tán những nội dung xuyên tạc sự thật, chống phá chế độ xã hội, Nhà
nước trên mạng internet, v.v. Điển hình là: Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần
Hoàng Phúc, Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,… và họ đã nhận những bản án
thích đáng về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (1999). Đó là minh chứng cho cái giá phải trả
của việc lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
Việt Nam. Trước Tòa, họ biện luận rằng: họ chỉ là những “người bất đồng chính
kiến”, đấu tranh hợp pháp, bằng “bất bạo động” và điều này hoàn toàn không vi
phạm pháp luật(!) Thực tế chứng minh điều ngược lại. Những người này đã đăng tải
nhiều video/clip trên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc
sự thật; lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong xã hội. Nói cách khác, những
“người bất đồng chính kiến” bị pháp luật xử lý là vì hành vi vi phạm pháp luật
của chính họ.
Thực tế trên
thế giới còn cho thấy, những vụ bạo động lật đổ chế độ thường diễn ra theo chuỗi:
bắt đầu bằng đấu tranh “bất bạo động”, “bất tuân dân sự”, phát triển thành gây
rối về an ninh trật tự dựa trên “hội chứng đám đông” và cuối cùng là gây bạo loạn
lật đổ chính quyền từ cục bộ đến cả nước. Không loại trừ những kẻ cầm đầu kêu gọi
lực lượng nước ngoài can thiệp. Đây là “kịch bản kinh điển” của những hoạt động
lật đổ chế độ ở một số quốc gia trên thế giới trong những thập niên gần đây.
Ở Việt Nam,
quyền tự do ngôn luận, nhất là quyền sử dụng mạng internet đã và đang bị các thế
lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng triệt để để vu cáo, bôi nhọ vai trò
lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội và Nhà
nước ta. Những luận điệu cho rằng: “Chế độ Hà Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng
sản Việt Nam “chiếm quyền” của dân, “đứng trên pháp luật”,… là một sự vu khống
trắng trợn, hoàn toàn sai trái cả về thực tế và lý luận. Cũng như pháp luật của
tất cả các quốc gia trên thế giới và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền tự
do ngôn luận nói riêng luôn luôn có mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội. Công ước quốc
tế về các quyền dân sự chính trị ghi rõ: mọi dân tộc đều có quyền tự quyết; xuất
phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự
do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Quy định này đã mặc nhiên thừa nhận
các dân tộc có quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ công
dân đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Hơn nữa, pháp luật luôn mang
tính chính trị, lịch sử và đặc thù về văn hóa. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã được Hiến định tại Điều 4, Hiến pháp (2013) và được Quốc hội
- cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ta, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
ghi nhận. Đảng ta không chỉ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn có
chức năng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật. Về thể chế chính trị của nước ta, Điều 2, Hiến pháp
(2013), quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”6. Những thông tin, luận điệu cổ súy “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, lấy mô hình “tam quyền phận lập” phương Tây
làm đối chứng để bác bỏ thể chế của Nhà nước ta không chỉ là một thủ đoạn bôi
nhọ chế độ ta, mà còn ấu trĩ trong nhận thức về sự đa dạng các mô hình xã hội
trên thế giới hiện nay.
Như vậy, cả
về lý luận, pháp lý và thực tế cho thấy: pháp luật Việt Nam đã tương thích với
luật quốc tế về quyền con người; tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói
chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin nói riêng. Quyền và
nghĩa vụ công dân trong thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận
thông tin không chỉ thống nhất, mà còn là điều kiện, tiền đề cho nhau. Công dân
muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin
thì phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã
hội, Nhà nước, các quyền và lợi ích của người khác. Ngược lại, các quyền này có
thể bị hạn chế hoặc tước bỏ nếu có hành vi vi phạm pháp luật.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét