Home » thoisu
Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2018
Đồng chí Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo tài năng, Tổng Bí thư kiên định, sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới
Là một học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, suốt đời tận tụy với Đảng, với Tổ
quốc, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, đồng chí Đỗ Mười
đã có những đóng góp to lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí Đỗ
Mười tham gia hoạt động trong Cao trào cách mạng Dân chủ, năm 1939 được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, đồng chí bị chính quyền thực dân Pháp bắt,
kết án 10 năm tù và bị giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Năm 1945, đồng chí vượt
ngục thành công, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông và được cử giữ
chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông.
Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, đồng chí giữ các chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam; Bí thư
Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến-Hành chính tỉnh Nam Định; Bí thư Tỉnh
ủy Ninh Bình; Khu ủy viên Khu ủy Khu
III, phụ trách 2 tỉnh Ninh Bình và Hòa Bình; Phó Bí thư Liên Khu ủy III kiêm
Phó Chủ tịch ủy Ban Kháng chiến-Hành chính Liên khu III, Chính ủy Tư lệnh Liên
khu III; Bí thư Khu Tả ngạn Sông Hồng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến-Hành
chính và Chính ủy Quân khu Tả ngạn Sông Hồng. Đây là những địa bàn chiến lược
trọng yếu, dưới sự chỉ huy của đồng chí Đỗ Mười, quân và dân Quân khu Tả ngạn
đã làm thất bại nhiều chiến dịch quân sự của địch, trong đó có trận tập kích
vào sân bay Cát Bi, Hải Phòng, đốt cháy hàng chục máy bay địch, góp phần vào thắng
lợi của dân tộc.
Sau ngày hòa
bình lập lại, đồng chí Đỗ Mười được phân công giữ nhiều chức vụ lãnh đạo, đứng
đầu nhiều cơ quan Bộ, Ngành và Chính phủ. Trên cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ,
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong hơn 20 năm (1965-1986), đồng chí được
giao phụ trách nhiều công việc quan trọng: Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ; giải tỏa thủy lôi Cảng Hải Phòng; Trưởng Ban chi viện cho miền Nam; trên
các công trường trọng điểm của Nhà nước... nơi nào đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt,
kịp thời là đồng chí có mặt.
Sau chiến thắng
mùa Xuân 1975, cả nước thống nhất, cùng với niềm vui khải hoàn dân tộc, là những
khó khăn bộn bề sau cuộc chiến. Tiếp đó là hệ quả nặng nề của cuộc tổng điều chỉnh
giá-lương-tiền (tháng 10-1985); những bất cập trong quản lý kinh tế-xã hội,
trong chính sách đối ngoại… tác động mạnh đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sản
xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, phải sử dụng nguồn vốn vay và viện trợ
của nước ngoài bù đắp một phần cho tiêu dùng.
Là một nước
nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, nhưng lương thực không đủ ăn, lạm phát trầm trọng,
đời sống của nhân dân hết sức khó khăn. Những hạn chế trong cơ chế quản lý kinh
tế đã kìm hãm tính năng động, sáng tạo của người dân, cơ sở sản xuất. Nhiều xí
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp đình đốn, thua lỗ, thậm
chí phải đóng cửa; số lượng lớn công nhân thất nghiệp. Hiệu lực quản lý Nhà nước
sút kém. Những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và dòng người di tản ra nước
ngoài tiếp tục gia tăng, gây nhiều khó khăn về kinh tế-xã hội, làm xáo động
nhân tâm và là cái cớ để các thế lực phản động chống Việt Nam dưới chiêu bài
“nhân quyền,” “dân chủ,” “tự do.”
Tình hình đất
nước đặt ra cho những người cộng sản Việt Nam phải giải quyết thách thức của lịch
sử: “Đổi mới hay là chết.” Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ tháng
9 năm 1988 đến tháng 6 năm 1991), đồng chí Đỗ Mười đã cùng tập thể Bộ Chính trị,
đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh xây dựng đường lối đổi mới, đưa ra
những quyết sách mang tính bước ngặt: Chống lạm phát; Xóa bỏ bao cấp về kinh
doanh lương thực, xuất khẩu, chính sách thuế, thay đổi giá và tỷ lệ giá hối
đoái, tính lại tiền lương, quy định lãi suất ngân hàng...
Thực hiện chủ
trương của Đảng, đồng chí Đỗ Mười lãnh đạo Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo triển
khai quyết liệt nhiệm vụ chống lạm phát, tăng cường sản xuất và khai thác mọi
nguồn hàng phục vụ tiêu dùng, cải thiện đời sống nhân dân; từng bước đổi mới cơ
chế kế hoạch hóa, tạo quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất, khai thác mọi tiềm
năng, đi dần vào hạch toán kinh doanh, gắn sản xuất với thị trường; điều hòa
cung cầu ở tầm vĩ mô.
Để chống lạm
phát, có nhiều ý kiến đưa ra để Chính phủ xem xét, áp dụng. Theo Tổ chức Tiền tệ
quốc tế (IMF) tính toán, phải có ba tỷ đôla mới giải quyết được lạm phát. Ba tỷ
đôla lúc bấy giờ chúng ta lấy đâu ra? Đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo: Chỉ có biện
pháp duy nhất là phát huy nội lực, dựa vào dân, động viên nhân dân bằng lợi
ích, để tạo ra những tiềm năng mới, đó cũng là tư tưởng của Bác Hồ: “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong.” Hội đồng Bộ trưởng đi đến
thống nhất mấy vấn đề cần phải tập trung giải quyết và báo cáo Bộ Chính trị:
Trước hết, là đẩy mạnh sản xuất, thực hiện tiết kiệm và dồn trọng tâm chỉ đạo
phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán hộ. Kết quả làm
cho sản xuất bung ra, giải quyết được căn bản vấn đề lương thực.
Hai là, khai
thác mọi nguồn hàng trong nước và ngoài nước. Một giải pháp tình thế lúc bấy giờ
là, ai ra nước ngoài thì khuyến khích mang hàng về. Nhà nước không đánh thuế.
Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng về rất nhiều, phần nào đáp ứng được
yêu cầu bức thiết trong sinh hoạt của nhân dân. Nhưng đó chỉ là giải pháp tạm
thời, để giải quyết tận gốc nạn khan hiếm hàng hóa tiêu dùng, phải tăng cường vận
động nhân dân sản xuất, Nhà nước có các chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng
sản xuất.
Ba là, để
thu hút tiền ở trong dân, Chính phủ chủ trương nâng lãi suất tiết kiệm từ 3%
lên 9%, ngang với mức giá của hàng hóa; ai gửi ba tháng thì thêm 3% nữa là 12%.
Lúc đầu đồng chí cho làm thí điểm ở Hải Phòng, sau đó nhân rộng ra cả nước. Do
có chính sách khuyến khích tiền gửi, nhân dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng, tạo
ra nguồn vốn phục vụ sản xuất.
Về phía Ngân
hàng Nhà nước, Chính phủ quy định nghiêm ngặt Ngân hàng chỉ được nhận tiền mặt
và cho vay, tài chính chỉ thu mà chi, không in thêm tiền. Sau một thời gian,
các chính sách kinh tế và tiền tệ của Chính phủ đã phát huy hiệu quả, đặc biệt
là giảm lạm phát, từ chỗ lạm phát ba con số: 774% năm 1986, giảm xuống còn hai
con số: 34% năm 1989; đến năm 1992 chỉ còn 14%.
Cùng với chống
lạm phát, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đề nghị Bộ Chính trị và Trung
ương đồng ý chủ trương xóa bỏ bao cấp, xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, đưa hai giá về
một giá... Đó là những vấn đề quan trọng, là cơ sở thực tiễn để Đảng ta đề ra
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) và Chiến lược kinh tế-xã hội 10 năm (1991-2000). Cương lĩnh của Đảng khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”
và “làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.” Đó là những quan điểm, đường lối đúng
đắn, thể hiện trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó sự đóng góp hết sức
quan trọng của đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí đưa ra chủ trương phát triển mạnh mẽ
công nghiệp nặng, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ.
Tháng 6 năm 1991,
khi đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng ta cũng là lúc Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân hoang mang, dao động, sụt giảm niềm tin vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Tình hình kinh tế-xã hội của đất nước lúc này tuy đã được cải
thiện một bước, nhưng vẫn đầy rẫy những khó khăn. Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối
về nhiều mặt, phát triển chậm. Ngân sách bội chi lớn; giá cả bấp bênh. Nhiều tổ
chức tín dụng ngoài quốc doanh bị vỡ nợ. Lao động thiếu việc làm, đời sống của
một bộ phận dân cư gặp rất nhiều khó khăn. Văn hóa, xã hội nhiều yếu kém, tệ
tham nhũng, tiêu cực lan tràn, trật tự an toàn xã hội rất phức tạp. Tình hình
thế giới diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền chống
phá, ảnh hưởng bất lợi đến nước ta.
Trên cương vị
Tổng Bí thư, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo giữ vững ổn định
chính trị, kiên định lập trường tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân;
kiên quyết đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa
chọn. Để tháo gỡ khó khăn, tiếp tục công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, Bộ
Chính trị xác định nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là phá thế bao vây cấm vận,
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ; chủ động gia nhập ASEAN, mở rộng
quan hệ với các nước trong cộng đồng quốc tế.
Thực hiện trọng
trách cao cả đó, từ ngày 5 đến 10/11/1991, nhận lời mời của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước Trung Quốc, đồng chí Đỗ Mười dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà
nước ta sang thăm chính thức Trung Quốc. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã ra
Thông cáo chung khẳng định: “Cuộc gặp cấp cao Việt-Trung đánh dấu sự bình thường
hóa quan hệ Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của
nhân dân hai nước và có lợi cho hòa bình và sự phát triển của khu vực.” Đây là
thành tựu ngoại giao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nước ta kể từ khi bắt đầu
thực hiện đường lối đổi mới.
Sau sự kiện
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đồng chí đã chỉ đạo tích cực phối hợp với
phía Mỹ giải quyết vấn đề quân nhân Mỹ mất tích. Với tinh thần nhân văn theo
truyền thống của dân tộc, để “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”; “vì hòa
bình, ổn định, cùng phát triển,” Việt Nam đã khiến phía Mỹ phải ghi nhận sự thiện
chí, trên cơ sở đó, ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố
chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Đây là dấu mốc đặc biệt quan
trọng, đánh dấu việc nước ta đã phá vỡ hoàn toàn thế bị bao vây, cấm vận. Từ
đây, đất nước có điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ được
các nguồn lực bên ngoài trong công cuộc chấn hưng đất nước.
Quan điểm chỉ
đạo của đồng chí Đỗ Mười: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các
nước trên thế giới” đã được triển khai bằng những hoạt động tích cực, sôi động
trên lĩnh vực ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đưa lại hiệu quả to lớn
cho đất nước. Không chỉ phá vỡ thế bao vây cấm vận, mà Việt Nam còn thiết lập
nhiều mối quan hệ hợp tác với các đối tác trên cơ sở song phương và đa phương.
Đó là thắng lợi hết sức quan trọng trên mặt trận ngoại giao, tạo tiền đề cho sự
hợp tác toàn diện của đất nước ta với cộng đồng quốc tế, đưa nước ta thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội, vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.
Gần hai khóa
làm Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười cùng tập thể Bộ Chính trị giữ vững vai trò cầm
quyền của Đảng trong lãnh đạo, điều hành đất nước. Nhiều đề xuất của cá nhân đồng
chí như việc triển khai xây dựng “Quy chế dân chủ ở cơ sở”; “Phong tặng danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng”...; đều xuất phát từ thực tế khi đồng
chí tiếp xúc với đồng bào, đồng chí hoặc các nhà lãnh đạo, chính khách nước
ngoài; xuất phát từ nhiệt huyết, trí tuệ và tấm lòng vì nước, vì dân, những
sáng kiến đó được nhân dân và bè bạn mãi mãi ghi nhớ.
Trên 80 năm
hoạt động và phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc và lý tưởng
cộng sản cao đẹp, đồng chí Đỗ Mười đã có những đóng góp to lớn cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Là một học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí suốt đời tận tụy với Đảng, với
Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù ở bất cứ
cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đồng
chí là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, năng lực làm việc, tư duy nhạy bén,
sáng tạo và kiên định lý tưởng cộng sản, với niềm tin mãnh liệt vào sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội và tương lai tươi sáng của đất nước.
Đồng chí là
một cán bộ lãnh đạo mẫu mực, luôn tuân thủ kỷ luật của Đảng; sống trung thực,
giản dị, gần gũi, hòa đồng với quần chúng; tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng
chí, của nhân dân. Với những hoạt động và cống hiến đối với Đảng, cách mạng và
dân tộc, đồng chí Đỗ Mười đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu
cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng cùng nhiều Huân, Huy chương
cao quý khác.
Tháng
12/1997, tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sau 70 năm
hoạt động cống hiến liên tục cho Đảng, cho cách mạng, đồng chí Đỗ Mười đã xin
không tiếp tục tham gia Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII. Trung ương đã chấp
thuận ý nguyện của đồng chí và đã suy tôn đồng chí làm Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Trong suốt
cuộc đời hoạt động và cống hiến cho Đảng, cho dân, đồng chí luôn thể hiện là
người của hành động, luôn có mặt ở nơi đầu sóng ngọn gió, những nơi khó khăn ác
liệt nhất, mạnh dạn, táo bạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước nhân dân, trước Đảng, luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên
hết, trước hết. Suy nghĩ và việc làm của đồng chí luôn thể hiện sự trăn trở của
một công dân, của một nhà lãnh đạo, người đứng đầu của Đảng đối với sự nghiệp của
đất nước, kể cả khi đã nghỉ hưu, sức khoẻ đã yếu. Đồng chí chưa bao giờ bằng
lòng với những gì đã làm được, không say sưa, ngủ quên với những thắng lợi mà
luôn tìm tòi theo cách nghĩ khám phá, sáng tạo. Mỗi khi nhắc tới cuộc đấu tranh
đầy hy sinh gian khổ, khó khăn, phức tạp vì độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng
chí coi đó là sự hy sinh của Đảng, của dân, điều đó chứng tỏ dân hết mình vì Đảng,
giờ đây, Đảng phải làm gì cho dân để đáp lại sự hy sinh to lớn và vô giá đó của
dân.
Đồng chí Đỗ
Mười luôn day dứt về nguy cơ tụt hậu của đất nước; về sự tăng trưởng dưới tiềm
năng và vấn đề tận dụng cơ hội để bứt phá. Với tầm nhìn xa, tư tưởng nhân văn,
đoàn kết, hòa hợp để chủ động khép lại quá khứ chiến tranh và hướng tới tương
lai. Đó là tầm nhìn trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, đòi hỏi ý thức, cách làm của mỗi
người phải tâm huyết, trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, nhân cách và phong cách của
người cộng sản chân chính với nhận thức rõ về kết hợp sức mạnh của thời đại và
dân tộc.
Theo đồng
chí Đỗ Mười, đổi mới là sáng tạo, là biết khai thác, phát huy thế mạnh của đất
nước, dân tộc, lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, vượt qua những trở lực về
tư duy cũ kỹ, lạc hậu và phong cách lãnh đạo quan liêu, đem lại chất lượng cao
cho công cuộc đổi mới và chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí Đỗ
Mười là người luôn sát dân, sát cơ sở. Tháng 3/1989, khi biết tin Hợp tác xã
nông nghiệp Duy Sơn II, tỉnh Quảng Nam–Đà Nẵng làm được thủy điện với công suất
nhỏ (0,4MW) vào thời điểm đất nước đang thiếu điện, đồng chí đã đến tận nơi, ra
tận công trường nơi núi cao để thăm hỏi, động viên người lao động và bàn cơ chế
hỗ trợ. Khi làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng, nghe tin Trường học sinh miền Nam ở
đây gặp nhiều khó khăn, xa cha mẹ, xa gia đình, đồng chí đã quyết định cấp thêm
gạo, quần áo, chăn ấm để các em ăn no, mặc ấm. Những học sinh miền Nam học tập
tại Hải Phòng mãi mãi ghi nhớ hình ảnh đồng chí Đỗ Mười, người lãnh đạo có tấm
lòng nhân hậu.
Xuất phát từ
tấm lòng yêu nước, trọng dân, thương dân, lòng tự hào dân tộc sâu sắc, đồng chí
Đỗ Mười chủ động đến với nhân dân để hiểu dân, học dân, hỏi dân, bàn bạc với
dân và tìm ra cách làm có hiệu quả nhất. Không giáo điều, rập khuôn, máy móc;
miệng nói tay làm, nói ít làm nhiều, lấy hiệu quả làm thước đo, đồng chí Đỗ Mười
đã làm đúng tinh thần lời dạy của Bác Hồ, người cán bộ khi nhận nhiệm vụ: “do
nhân dân ủy thác thì phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh
quốc dân ra trước mặt trận.”
Tấm gương cống
hiến và hy sinh hết mình cho đất nước, cho nhân dân của đồng chí Đỗ Mười mãi
mãi sáng ngời. Tên tuổi của đồng chí đã và sẽ trở thành tượng đài sống mãi
trong lòng mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét