Home » hoptacdoingoai
Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2018
Thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản phát triển sâu rộng, toàn diện, hiệu quả
Từ ngày 8 -
10/10/2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân sẽ dẫn đầu Đoàn đại
biểu Cấp cao Việt Nam tham dự Hội nghị Cấp cao Hợp tác Mê Công – Nhật Bản lần
thứ 10 tại Tokyo, Nhật Bản và thăm Nhật Bản.
Việt Nam
tham gia tích cực vào cơ chế hợp tác Mê Công - Nhật Bản
Tháng
1/2007, Hội nghị Cấp cao ASEAN 12 diễn ra tại Philippines, Nhật Bản đề xuất
Chương trình quan hệ đối tác Nhật Bản - Mê Công, tập trung vào ba lĩnh vực ưu
tiên: Hội nhập kinh tế tiểu vùng cải thiện kết cấu hạ tầng, tăng cường liên kết
khu vực…; Mở rộng thương mại - đầu tư giữa Nhật Bản với khu vực Mê Công; Theo
đuổi các giá trị phổ cập và mục tiêu chung của khu vực (xóa đói giảm nghèo, mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ, kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ môi trường...).
Cho tới nay,
Nhật Bản và các nước Mê Công gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam đã
tiến hành 9 Hội nghị Cấp cao, 11 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và 10 Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế, trong đó đã đạt được một số thỏa thuận và triển khai cụ thể.
Giai đoạn
2009-2012, các lĩnh vực hợp tác bao gồm, phát triển hạ tầng cứng và mềm, phát
triển kinh tế bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, bảo vệ môi trường, ứng
phó với thách thức như dịch bệnh, thiên tai; tăng cường giao lưu giữa các nước
Mê Công và Nhật Bản.
Giai đoạn
2013-2015, các lĩnh vực hợp tác nhằm, tăng cường kết nối trong tiểu vùng Mê
Công và giữa tiểu vùng Mê Công với các khu vực và thế giới; hợp tác cùng phát
triển giữa các nước Mê Công và Nhật Bản; bảo vệ môi trường và an ninh con người.
Ngoài ra, hợp tác Mê Công - Nhật Bản cũng triển khai Lộ trình Phát triển Mê
Công 2012-2015 và sáng kiến hợp tác kinh tế công nghiệp Mê Công - Nhật Bản.
Giai đoạn
2016-2018, với mục tiêu đạt được “tăng trưởng chất lượng” và tiếp tục phát triển
kinh tế một cách bền vững và đều khắp tại tiểu vùng Mê Công, lĩnh vực hợp tác tập
trung phát triển hạ tầng công nghiệp và tăng cường kết nối “cứng” trong tiểu
vùng Mê Công và với các khu vực bên ngoài; phát triển các ngành công nghiệp và
chuỗi giá trị khu vực, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường kết nối thể chế,
kinh tế và giao lưu nhân dân; phát triển bền vững hướng tới thực hiện một Mê
Công xanh; tăng cường phối hợp giữa hợp tác Mê Công - Nhật Bản với các cơ chế hợp
tác khu vực, tổ chức quốc tế.
Về nguồn lực,
tại Hội nghị Cấp cao Mê Công - Nhật Bản lần 7 (tại Tokyo, 4/7/2015), Thủ tướng
Nhật Bản thông báo dành 750 tỷ Yên ODA cho các nước Mê Công để triển khai Chiến
lược Tokyo 2015 và sẽ ưu tiên tiểu vùng Mê Công trong thực hiện sáng kiến 110 tỷ
USD hợp tác với Ngân hàng Phát triển châu Á về phát triển hạ tầng chất lượng
cao ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngoài ra, hợp tác Mê Công - Nhật Bản
cũng triển khai “Tầm nhìn phát triển công nghiệp Mê Công” giai đoạn 2016-2018”.
Ngay từ khi
hợp tác Mê Công - Nhật Bản hình thành, Việt Nam đã tham gia tích cực vào cơ chế
hợp tác này. Sau 10 năm hợp tác, với những đóng góp hiệu quả và tích cực, Việt
Nam đã ngày càng thể hiện vai trò, có tiếng nói quan trọng trong nhiều vấn đề lớn
của hợp tác Mê Công - Nhật Bản.
Các bộ,
ngành và địa phương của Việt Nam đã tham gia vào hơn 100 dự án, nổi bật là các
dự án xây dựng cảng nước sâu Lạch Huyện, nhà ga số 2 sân bay Nội Bài, nhà máy
nhiệt điện Ô Môn, Nghi Sơn 2, nâng cao năng lực sản xuất vắc xin sởi và
Rubella...
Việt Nam
cũng đã kiên trì thúc đẩy và đưa vấn đề hợp tác nguồn nước sông Mê Công trở
thành một nội dung quan trọng của hợp tác, gắn kết cơ chế Mê Công - Nhật Bản với
Ủy hội sông Mê Công (MRC). Trong hợp tác Mê Công - Nhật Bản, Việt Nam đã tham
gia nhiều dự án, đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam.
Quan hệ Việt
Nam và Nhật Bản phát triển sâu rộng
Trong những
năm gần đây, quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Nhật Bản là
nước G-7 đầu tiên đón Tổng Bí thư Việt Nam đến thăm (năm 1995), nước G-7 đầu
tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam (năm 2009), nước G-7 đầu
tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011), nước G-7 đầu
tiên mời Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G-7 mở rộng (tháng 5/2016).
Trong những
năm qua, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát triển toàn diện, sâu rộng
và thực chất trên nhiều lĩnh vực, với sự tin cậy cao về chính trị.
Hai nước đã
thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài nhân chuyến thăm
Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi tháng 4/2002.
Trong chuyến
thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 4/2009, hai nước
nhất trí nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh
ở châu Á.
Tháng
10/2010, hai bên ra Tuyên bố chung Việt Nam - Nhật Bản về Phát triển toàn diện
quan hệ Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á, nhân chuyến thăm
Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan.
Đặc biệt,
trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
tháng 3/2014, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược sâu rộng
vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á.
Trong chuyến
thăm chính thức Nhật Bản tháng 9/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe đã ra Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam-Nhật Bản.
Tiếp đó,
chuyến thăm cấp Nhà nước lần đầu tiên của Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản (28/2 -
5/3/2017), chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Shinzo Abe (tháng
1/2017), đã góp phần đưa quan hệ hai nước phát triển ngày càng sâu rộng, toàn
diện, hiệu quả hơn.
Hai bên duy
trì hiệu quả các cơ chế đối thoại, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương
như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)...
Nhật Bản là
đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Đến nay, Nhật Bản là nước tài
trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhà đầu tư số hai tại Việt Nam. Năm 2017 Nhật Bản
là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam.
Về thương mại,
hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999. Trong 8 tháng đầu năm
2018, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 24,52 tỷ USD (tăng 13,7% so với
cùng kỳ năm 2017), trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt
12,21 tỷ USD (tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2017), nhập khẩu đạt 12,31 tỷ USD
(tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2017).
Về đầu tư trực
tiếp, năm 2017, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đạt mức kỷ lục 9,11
tỷ USD, đứng đầu trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Lũy kế tính đến cuối tháng 8/2018, Nhật Bản có 3.865 dự án FDI còn hiệu lực tại
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 55,838 tỷ USD, đứng thứ 2 trong tổng số
116 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Tính đến
20/8/2018, Nhật Bản có 284 dự án cấp mới, 124 dự án tăng vốn và 409 lượt góp vốn
mua cổ phần với tổng vốn đầu tư là 7,016 tỷ USD, đứng số đầu trong số các quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Về viện trợ
phát triển chính thức ODA, từ năm 1992 đến hết tài khóa 2016 (31/3/2017), Nhật
Bản đã cam kết khoảng 30,5 tỷ USD, ODA vốn vay cho Việt Nam. 6 tháng đầu năm
2018, hai bên đã ký các công hàm trao đổi cho 2 dự án viện trợ không hoàn lại
(tổng trị giá gần 25 triệu USD). Nhật Bản cam kết khoản vay gần 16 tỷ yên (142
triệu USD) cho lĩnh vực đào tạo nghề tại Việt Nam.
Hợp tác nông
nghiệp có bước đột phá từ năm 2014 trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản
của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng (9/2015), hai bên đã ký kết "Tầm nhìn trung và dài
hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản", ký lại Tầm nhìn chung
sửa đổi vào tháng 5/2018.
Từ năm 1992
đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện có khoảng
120.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản. Quan hệ hợp tác về giáo
dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức, Nhật Bản là một
trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục đào tạo của
Việt Nam.
Số lưu học
sinh Việt Nam tại Nhật Bản đến đầu 2018 khoảng 75.000 người. Nhật Bản đang hợp
tác để nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao; đang
hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ; hỗ trợ
Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường tiểu học, phổ thông cơ sở tại Hà Nội
và TP Hồ Chí Minh.
Tính đến hết
tháng 7 năm 2018, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đạt 464.379 lượt,
tăng 3,0% so với năm 2017, đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Hàn Quốc).
Từ ngày
1/1/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh
doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ ngày 1/7/2004, quyết định miễn thị
thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản.
Ngày
8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai
nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn
lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005. Nhật Bản bắt đầu thực
hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng
hơn từ ngày 15/2/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt
Nam.
Hợp tác địa
phương hai nước Việt Nam - Nhật Bản được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhiều địa phương của
hai nước đã ký văn bản hợp tác như: TP Hồ Chí Minh - Osaka; TP Hồ Chí Minh -
Yokohama; Đà Nẵng - Sakai; Hà Nội - Fukuoka; Đà Nẵng - Yokohama; Đồng Nai -
Hyogo; Bà Rịa - Vũng Tàu và Kawasaki; Phú Thọ - Nara; Huế - Kyoto; Hưng Yên -
Kanagawa; Hải Phòng - Niigata; Nam Định - Miyazaki; Quảng Nam - Nagasaki; Cần
Thơ - Hyogo; TP Hồ Chí Minh - Nagano...
Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân sẽ dẫn đầu Đoàn đại biểu Cấp cao Việt
Nam tham dự Hội nghị Cấp cao Hợp tác Mê Công - Nhật Bản lần thứ 10 tại Tokyo,
Nhật Bản và thăm Nhật Bản khẳng định Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trong đó coi trọng
quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản và quyết tâm đưa quan hệ Đối
tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản sang giai đoạn phát triển mới, toàn diện,
thực chất hơn.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét