Home » thoisu
Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018
Không thể phủ nhận những bước tiến về quyền con người của Việt Nam
Xác định con người là mục tiêu và động lực của sự phát
triển đất nước, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán thực thi đảm bảo quyền con người
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với quan điểm đó, việc thực hiện quyền
con người ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đó
là điều không thể phủ nhận.
Vừa qua, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cho lưu hành Dự thảo “Báo cáo Quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện
quyền con người ở Việt Nam”1 lần thứ ba tại Liên hợp quốc, dự kiến họp vào đầu
năm 2019. Nhân sự kiện này, một số tổ chức, cá nhân luôn thiếu thiện chí với Việt
Nam đã có những chỉ trích, nói đúng hơn là xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu,
bước tiến quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Điển hình
là: “Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế” (FIDH) và tổ chức thành viên là “Ủy ban Bảo
vệ Quyền làm người Việt Nam” (VCHR), cho rằng: “Chính phủ Việt Nam không đạt được
một tiến bộ nào trong việc thay đổi những luật lệ hà khắc theo các tiêu chuẩn
quốc tế và họ cũng không cải tổ về luật pháp theo các nguyên tắc dân chủ…”, “Việt
Nam che giấu vi phạm nhân quyền trong báo cáo định kỳ phổ quát”, v.v.
Sự thật có đúng như vậy không? Phải chăng Việt Nam
“không đạt được một tiến bộ nào” trên lĩnh vực quyền con người trong những năm
qua? Câu trả lời là không. Sự thật không như nhận định của họ. Đó là nhận định
hết sức chủ quan, thiên kiến, áp đặt, hòng phủ nhận, xuyên tạc đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định rằng: Báo cáo của Bộ Ngoại
giao Việt Nam đã tuân thủ đúng yêu cầu của Liên hợp quốc, trình bày đầy đủ nội
dung theo quy định, quy trình soạn thảo; có các cơ quan, tổ chức tham gia xây dựng
văn kiện. Việt Nam luôn coi trọng và thực hiện các cam kết và nghĩa vụ theo cơ
chế kiểm điểm phổ quát định kỳ (UPR) và đã thực hiện được hầu hết các khuyến
nghị mà Liên hợp quốc đưa ra trong kỳ kiểm điểm nhân quyền lần trước cách đây 4
năm (báo cáo lần 2 được thực hiện vào năm 2014). Báo cáo đã rút ra những kinh
nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người cũng như những vấn đề đang tồn tại do
nguyên nhân khách quan và chủ quan mà Nhà nước Việt Nam đang tập trung giải quyết,
chứ không hề che giấu như đánh giá của VCHR.
Trên lĩnh vực thể chế, pháp luật, cho đến nay, Việt
Nam đã gia nhập, ký kết đầy đủ những công ước quốc tế cơ bản về quyền con người,
trong đó có “Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối
xử tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá khác” (CAT). Đây là sự cam kết mạnh
mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người; ngăn chặn mọi hành vi tra tấn,
đối xử vô nhân đạo hoặc xúc phạm nhân phẩm con người trong bất cứ hoàn cảnh
nào, bởi bất cứ cá nhân, tổ chức nào, kể cả cơ quan thực thi pháp luật.
Từ năm 2014 đến nay, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, ban hành nhiều luật, bộ luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức nói chung và đảm bảo quyền con người nói
riêng. Tiêu biểu như: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016); Luật Báo chí (năm
2016), đã đặt nền móng cho việc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo tốt hơn cho
người dân; thực hiện nguyên tắc không kiểm duyệt đối với việc xuất bản, phát
thanh, truyền hình. Ngoài ra, còn có các luật, như: Luật Trợ giúp pháp lý (năm
2017), Luật Đặc xá (năm 2018), v.v. Đáng chú ý, việc ban hành Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam (năm 2015), cùng với Luật Thi hành án
hình sự, đã đảm bảo các phiên tòa và quyền lợi của những người bị tạm giữ, thi
hành án đúng pháp luật, v.v.
Đặc biệt, trước đó, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, là một bước tiến mới trên lĩnh vực
thể chế Quốc gia về quyền con người. Tại Chương II về “Quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa đã quy định đầy đủ, tương thích với các công ước quốc tế về quyền
con người của Liên hợp quốc mà Việt Nam tham gia. Ba nguyên tắc về quyền con
người cũng đã được quy định tại chương này. Đó là: 1. Tất cả các quyền con người
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (Điều 14.1); 2. “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14.2); 3. “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” (Điều 31). Điều 25 của Hiến pháp cũng
đã quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”. Điều này cho thấy, Nhà nước Việt Nam đã rất tích cực và đạt được kết quả
quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người.
Không chỉ vậy, luật pháp Việt Nam còn thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo, vì
con người, chứ không “hà khắc” như FIDH nói.
Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ: Đảng Cộng sản Việt
Nam không chỉ giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn là một tổ chức “gắn
bó mật thiết với nhân dân”, “chịu trách nhiệm trước nhân dân” và “hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, không có chuyện Đảng Cộng sản
Việt Nam, các đảng viên của Đảng “độc quyền”, “đứng trên pháp luật” như một số
người nhắm mắt cố nói và viết trên mạng.
Về phương diện bảo đảm quyền con người trên thực tế,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, tổ chức của Nhà nước,
sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực: an sinh xã hội được bảo đảm và tăng cường.
Đây chính là cơ sở quan trọng để quyền con người, nhất là những quyền cơ bản được
đảm bảo ngày một tốt hơn. Đến năm 2015, Việt Nam đã hoàn tất các mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ trước thời hạn. Nhờ đó, 43 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi
nghèo đói; tính theo chuẩn mới đến năm 2017, tỷ lệ người nghèo giảm xuống còn
7%. Việt Nam đã hoàn thành việc phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2010 và mầm
non năm 2017. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ
sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên
một vạn dân tăng nhanh. Chất lượng hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng
cao. Đây là sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hiếm có một quốc gia
nào trong điều kiện vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài có thể đạt được.
Trong những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, bầu không
khí chính trị, xã hội, diện mạo kinh tế, quan hệ đối ngoại của đất nước đã có
những thay đổi quan trọng. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV (nhiệm kỳ
2016 - 2021), cả nước có tới 67.485.482 cử tri đi bầu, đạt 99,35%, là minh chứng
hùng hồn về việc thực thi quyền tự do, dân chủ, đồng thời phản ánh ý thức chính
trị cao của công dân đối với đất nước, mà không thế lực nào có thể xuyên tạc,
phủ nhận.
Quyền tự do ngôn luận báo chí ngày càng rộng rãi hơn.
Cho đến năm 2017, Việt Nam có 982 cơ quan báo, tạp chí được cấp phép hoạt động2,
đã thông tin kịp thời, phản ánh hơi thở đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân. Mọi người có quyền sáng tạo
tác phẩm báo chí, cung cấp, phản hồi thông tin trên báo chí, bày tỏ ý kiến về
tình hình đất nước và thế giới, tham gia góp ý, xây dựng và thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phê bình, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo trên báo chí, v.v. Với chính sách tiến bộ, phù hợp, đón trước
sự phát triển của khoa học - công nghệ, Việt Nam đã đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo
điều kiện cho người dân phát triển, truy cập in-tơ-nét, tiếp cận tin tức của
các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và quốc tế một cách rộng rãi. Theo Tổ
chức Nghiên cứu về mạng xã hội quốc tế “Next Web”, hiện nay, Việt Nam nằm trong
“Top 10” quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới, với 64 triệu người,
chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Ngoài ra, Việt Nam có tới 336 mạng
xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động.
Trên lĩnh vực kinh tế, theo báo cáo của Chính phủ năm
2017, tình hình kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng GDP đạt 6,7%; các cân đối lớn
của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5
triệu đồng, tương đương 2.385 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. Theo báo cáo của
Chính phủ tại phiên Họp báo thường kỳ tháng 8-2018, tăng trưởng GDP năm 2018 có
khả năng hơn 6,7%, thu ngân sách vượt dự toán 3%-5%; nợ công giảm, lạm phát dưới
4%; năng suất lao động tăng; bảo đảm sự phát triển của đất nước không chỉ tăng
trưởng theo số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên. Nhờ đó, đời sống của
nhân dân được nâng lên, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được
củng cố, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng cao.
Để bảo đảm quyền bình đẳng, sự phát triển công bằng
cho mọi người, có thể nói, hiếm có một quốc gia nào lại có nhiều chính sách hướng
đến nhóm xã hội yếu thế, đồng bào vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số như Việt
Nam. Chẳng hạn như: tổ chức tín dụng phục vụ người nghèo, “Ngân hàng Chính sách
xã hội”, v.v. Với các tổ chức này, người nghèo có thể vay trực tiếp hoặc vay ủy
thác qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội của mình, như: Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh, v.v. Ngoài ra, Nhà nước còn dành một khoản ngân sách lớn cho
Chương trình 135, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ công cộng địa
phương thiết yếu, như: điện, trường học, trạm y tế, nước sạch. Qua đó, góp phần
nâng cao đời sống, sinh hoạt cho các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số
và miền núi. Theo kế hoạch, giai đoạn 2016 - 2020, có gần 2.300 xã được đầu tư;
riêng hai năm (2014 - 2015), Chương trình đã dành số vốn từ ngân sách nhà nước
lên đến 7.790 tỷ đồng. Việc thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ
được quan tâm, đạt kết quả cao. Hiện nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở Việt Nam
khóa XIV (nhiệm kỳ 2016 - 2021) là 26,72%, tăng so với hai khóa trước đó, cao
hơn mức trung bình của thế giới (23,6%), giữ vị trí tương đối trong khu vực và
lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Với những minh chứng trên, có thể khẳng định rằng, so
với thời điểm báo cáo lần 2 (năm 2014), việc bảo đảm quyền con người của Việt
Nam trên các lĩnh vực, từ thể chế Quốc gia, pháp luật và trên thực tế đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, có bước phát triển mới. Đó là sự thật không ai có
thể phủ nhận.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét