Home » thoisu
Thứ Ba, 4 tháng 12, 2018
Việt Nam nghiêm túc thực hiện các khuyến nghị về bảo vệ nhân quyền
Tại Hội thảo
công bố Báo cáo quốc gia theo UPR chu kỳ 3 diễn ra sáng 3-12 tại Hà Nội, do Bộ
Ngoại giao phối hợp với Chương trình phát triển LHQ (UNDP) tại Việt Nam tổ chức,
các đại biểu đánh giá tích cực những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo
vệ và thúc đẩy quyền con người.
Nhiều chính
sách mới bảo đảm quyền con người được ban hành
Bà Caitlin
Wiesen, Quyền trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh, ngày
3-12 là Ngày Quốc tế Người khuyết tật (NKT) và đây là vấn đề quan trọng đối với
cả UNDP cũng như Chính phủ Việt Nam. Bà khẳng định: “Chúng tôi rất hài lòng Việt
Nam đã phê chuẩn Công ước của LHQ về quyền của NKT năm 2015. Điều này cho thấy
cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ những quyền này”. Báo cáo quốc gia theo
UPR chu kỳ 3 cũng khẳng định những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm
các quyền của NKT, bao gồm việc thành lập Ủy ban Quốc gia về NKT năm 2015, ban
hành nhiều chương trình, đề án liên quan đến NKT…
Báo cáo cũng
nêu bật những tiến bộ trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người (QCN) kể từ lần
rà soát chu kỳ 2, nhấn mạnh việc này được thể hiện xuyên suốt trong các chiến
lược, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược cải cách tư pháp cũng
như quá trình triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của Việt Nam, trong đó
có các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận. Báo cáo đánh giá kể từ lần rà
soát chu kỳ 2, Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện về mặt pháp luật, thể chế, chính
sách về QCN, tạo nền tảng vững chắc mang lại những kết quả thực tiễn đáng khích
lệ.
Theo báo
cáo, kể từ lần rà soát chu kỳ 2, nhiều chính sách mới quan trọng đã được ban
hành với mục tiêu để mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ QCN, đặc biệt
là nỗ lực xây dựng Chính phủ kiến tạo, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững,
bảo đảm quyền phát triển, quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương, quyền của người
lao động. Cụ thể, chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 khẳng
định nỗ lực xây dựng “Chính phủ kiến tạo, hành động quyết liệt, hiệu lực, hiệu
quả, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”.
Ngoài ra,
Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách về giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương
thực, cải thiện dinh dưỡng, thúc đẩy nông nghiệp bền vững, chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân... Cùng với đó là những nỗ lực hoàn thiện pháp luật, chính sách về
bình đẳng giới…
Về thực hiện
các cam kết quốc tế và hợp tác quốc tế về QCN, kể từ lần rà soát trước, Việt
Nam đã phê chuẩn thêm hai công ước về QCN: Công ước về Quyền của NKT và Công ước
Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc
hạ nhục con người. Như vậy, hiện Việt Nam là thành viên của 7/9 công ước quốc tế
cơ bản về QCN. Theo báo cáo, Việt Nam đang tiếp tục xem xét khả năng gia nhập
Công ước về Người mất tích cưỡng bức và Công ước về Quyền của người lao động di
cư và thành viên gia đình họ.
Đặc biệt,
báo cáo cũng nêu bật những thành tựu đạt được trong công tác bảo vệ và thúc đẩy
QCN trên thực tế, bao gồm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa, như: Các quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, quyền được tôn trọng
về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do đi lại; quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp…; thúc đẩy
kinh tế phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, việc làm, bảo
đảm nước sạch, chăm sóc y tế, giáo dục, nhà ở cho người nghèo…
Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu nêu trên vẫn còn những thách thức đáng kể được chỉ ra
trong báo cáo quốc gia UPR chu kỳ 3. Cụ thể là những tồn tại về khuôn khổ pháp
lý, nguồn lực và chính sách nhằm thúc đẩy và bảo đảm các QCN, nhất là đối với
các nhóm yếu thế trong xã hội.
Báo cáo cũng
đồng thời đề xuất các hướng ưu tiên của Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới
nhằm bảo đảm sự thụ hưởng tốt hơn các quyền cơ bản của mỗi người dân. Trong đó,
nhấn mạnh ưu tiên cao nhất của Việt Nam là tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền,
cải cách pháp luật củng cố các nền tảng thể chế, pháp lý và chính sách liên
quan đến bảo vệ và thúc đẩy QCN.
Việt Nam coi
trọng các cam kết theo cơ chế UPR
Theo bà
Caitlin Wiesen, quy trình rà soát theo UPR qua các chu kỳ được thực hiện 4 năm
rưỡi một lần. Đây là một quy trình quan trọng để chứng tỏ sự tiến bộ của các nước
qua các chu kỳ trong lĩnh vực bảo đảm QCN. Nếu không, các khuyến nghị giống
nhau sẽ tiếp tục được nhắc lại trong các chu kỳ tiếp theo. Và giai đoạn thực hiện
các khuyến nghị chính là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình rà soát, cho
thấy chính phủ đó tích cực có các biện pháp để bảo vệ nhân quyền như thế nào.
Theo ông Đặng
Hoàng Giang, Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao, tính riêng tại UPR chu kỳ 2, Việt
Nam đã chấp thuận 182/227 khuyến nghị nhận được. Tính đến tháng 10-2018, Việt
Nam đã thực hiện 175 khuyến nghị (chiếm 96,2%); trong đó, 159 khuyến nghị đã được
thực hiện hoàn thành, 16 khuyến nghị đã được thực hiện một phần và đang tiếp tục
thực hiện. 7 khuyến nghị còn lại đang được thực hiện hoặc xem xét thực hiện vào
thời điểm phù hợp. Không có khuyến nghị nào đã được chấp thuận mà chưa được xem
xét thực hiện. Để triển khai các khuyến nghị UPR, Việt Nam đã chủ động xây dựng
kế hoạch tổng thể được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phân công nhiệm vụ cho
các bộ, ngành liên quan. Các bộ, ngành cũng có nhiều sáng kiến để triển khai
các khuyến nghị trong lĩnh vực mình phụ trách.
Việc thực hiện
các khuyến nghị UPR đã có những tác động tích cực, đặc biệt trong lĩnh vực xây
dựng hệ thống pháp luật về QCN, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống của
người dân và thúc đẩy hợp tác, đối thoại ở cấp khu vực và quốc tế về vấn đề
QCN. “Đây cũng chính là nguyên nhân, đồng thời là động lực để Việt Nam tiếp tục
coi trọng và nghiêm túc thực hiện các cam kết theo cơ chế UPR”, ông Giang khẳng
định.
Bà Caitlin
Wiesen cho rằng, bằng việc tăng cường các cơ chế quốc gia về báo cáo, thực hiện
và giám sát, Việt Nam có thể cho thấy có khuôn khổ luật pháp và thể chế phù hợp,
hiệu quả để thực hiện toàn bộ các khuyến nghị từ tất cả các cơ chế QCN.
Theo kế hoạch,
Việt Nam sẽ trình bày và đối thoại về Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ 3 trước Hội đồng
Nhân quyền LHQ trong tháng 1-2019. Đây được coi là cơ hội để Việt Nam cùng các
nước thành viên LHQ cùng rà soát và xác định những lĩnh vực ưu tiên, những giải
pháp khả thi nhằm thúc đẩy và bảo vệ các QCN ở Việt Nam.
- UPR là quy
trình duy nhất của LHQ về QCN, được sự ủng hộ của tất cả các thành viên LHQ và
bao gồm tất cả các QCN. Vì vậy, UPR thực sự là một quy trình phổ quát, bao gồm
việc rà soát tình hình nhân quyền ở tất cả các nước, nhằm có một cuộc thảo luận
hiệu quả giữa các quốc gia và giúp các nước rà soát quá trình bảo vệ QCN của
mình.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét