Home » thoisu
Thứ Ba, 19 tháng 2, 2019
Chiến tranh Việt-Trung 1979: Các bài học (phần 2)
Lãnh đạo và các nhà nghiên cứu Trung
Quốc lại có cái nhìn khác về chiến thắng khi coi trọng các kết quả địa chính trị
hơn là hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Đặng Tiểu Bình đã xác quyết một sự
chiến thắng chính trị của cuộc chiến tranh bất kể có một số tổn thất về quân sự
và tuyên bố nó vẫn là một cuộc chiến thắng của Trung Quốc. Alnie Ginck trong
nghiên cứu công bố năm 1992 lại cho rằng: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành
công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh
tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”. Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc
phòng Trung Quốc, nhận xét về thành công của Trung Quốc trong chiến tranh 1979:
“Cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản
Trung Quốc, hai là người Mỹ…Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh.
Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, thực hiện chương trình cải cách mở cửa,
cần thống nhất quyền lực. Cách tốt nhất là qua chiến tranh. Đánh Việt Nam là lấy
lòng tin của Mỹ, không phải giúp Mỹ trả nợ thất bại ở Việt Nam mà vì chính lợi
ích của Trung Quốc. Cuộc chiến đã tạo nền tảng bình thường hóa quan hệ với Mỹ,
có 10 năm quan hệ nồng ấm, mang lại cho Trung Quốc sự viện trợ ồ ạt kinh tế, kỹ
thuật, khoa học, nguồn vốn và cả quân sự cần thiết cho cải cách… Tuần trăng mật
giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc
chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền
bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi
Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên
của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa
đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to
lớn vô cùng”. Trương Hiếu Minh đưa ra nhận xét: “Đối với Đặng, dạy Việt Nam
“bài học” là thông điệp không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các
nước phương Tây. Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới
phía bắc, tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ
trợ tài chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm
hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế.
Mỹ không còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ
có thể dốc toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến
tranh Lạnh. Bên trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính
trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế. Liên Xô ở trong tình thế
nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với
Mỹ trên toàn cầu, Moskva cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á. Từ
góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì
thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cuối thập
niên 1980. Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ
1978. Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược”.
Cuộc chiến cũng thay đổi cách nhìn nhận chuẩn bị chiến tranh hiện đại cho quân
đôi Trung Quốc. Bắc Kinh đã rút ra các bài học cần thiết để hiện đại hóa quân đội.
Những thay đổi sau 1979 đã tái sinh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc,
giúp họ vươn xa, vươn rộng hơn trên cục diện địa chính trị quân sự thế giới. Lực
lượng đặc biệt tinh nhuệ (SOF – special-operations forces) của Trung Quốc, một
mô hình giống đặc công Việt Nam, được thành lập và triển khai ngay trong chiến
dịch Lão Sơn ở biên giới Việt-Trung
Cuộc chiến biên giới kéo dài và những
bất ổn của tình hình quốc tế buộc Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, sớm tính đến
bình thường hóa quan hệ và nhanh chóng giải quyết vấn đề biên giới.
Một số nhà bình luận quốc tế cũng cho
rằng Trung Quốc chịu thất bại về chiến thuật và quân sự trên chiến trường nhưng
đạt được một số thành công trong dài hạn. Đây là trận cần đánh để thể hiện với
Mỹ sự dứt khoát không chung đường với Liên Xô và Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ
của Mỹ để thực hiện bốn hiện đại hóa. Washington nhìn thấy mối quan tâm của Bắc
Kinh và tìm kiếm quan hệ chặt chẽ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông
Nam Á thông qua Việt Nam. Cuộc chiến cũng làm phơi bày sự yếu kém lạc hậu về
quân sự và kinh tế của Trung Quốc, lý do để Đặng Tiểu Bình nắm thế lãnh đạo thực
hiện hiện đại hóa. Sau năm 1989 (khởi đầu sự sụp đổ của Liên Xô), Việt Nam phải
điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình do hậu quả cuộc chiến biên giới và 10
năm suy thoái kinh tế. John M. Peppers phân tích: Thứ nhất, Việt Nam đánh mất sự
cân băng ảnh hưởng truyền thống, quý giá giữa các cường quốc, nối kết nhiều hơn
với Liên Xô. Chính vì thế, Việt Nam, giống như Cuba, đã phải trả giá đắt hơn phần
lớn các nước khác với sự sụp đổ của Liên Xô. Thứ nhì, Việt Nam đã không đạt được
mục đích hay vấn đề gì của mình với Trung Quốc. Từ ngay chính vấn đề biên giới,
cho đến vùng biển Vịnh Bắc Bộ và các quyền đánh cá, cho đến Quần đảo Trường Sa,
các cuộc đàm phán và tiến triển đã bị trì hoãn trong 20 năm. Thứ ba, Việt Nam
đã bị gán nhãn hiệu trên bình diện quốc tế như một mối đe dọa cấp vùng (và một
chư hầu của Liên Xô), mất đi viện trợ thiết yếu từ Australia, Nhật Bản, Thụy Điển,
Đan Mạch, cũng như dầu hỏa của Trung Quốc. Kết quả là một hiệu ứng tàn phá chồng
chất trên nền kinh tế trong thời gian dài. Sau cùng, sự căng thẳng và cạn kiệt
các nguồn lực trong năm 1979 và hậu quả của nó trên các vấn đề đối nội của Việt
Nam không thể bị đánh giá thấp, “bởi đối với Việt Nam, cái giá chiến đấu hai trận
chiến tranh trong một thời kỳ ba tháng là quá đắt. Nền kinh tế dọc biên giới
Trung Quốc đã bị tàn phá”.
Trương Hiếu Minh tổng kết 6 bài học
cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ cuộc chiến tranh biên giới 1979:
Bài học thứ nhất là đánh giá thấp khả
năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy
quân đội Trung Quốc quan tâm rất ít đến binh pháp và chiến thuật của quân đội
Việt Nam trước khi tấn công Việt Nam, vì vậy đã chịu tổn thất nặng, không đạt
được các mục tiêu đề ra. Các tướng lĩnh Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng chiến
thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành công đáng
kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc.
Bài học thứ hai liên quan đến tình
báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống
đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến
của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình miền Bắc Việt Nam của quân đội
Trung Quốc thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong
khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn
của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai lực lượng dân quân rất lớn trong dự
đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của quân đội Trung Quốc cho thấy,
dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn
công bất ngờ hơn vào quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy quân đội Việt Nam.
Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu
của quân đội Trung Quốc vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối
hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng
không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến
quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến.
Bài học thứ tư, quân đội Trung Quốc yếu
kém về hiệu năng chỉ huy và điều khiển,
Bài học thứ năm, quân đội Trung Quốc
thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại để hỗ trợ cho những chiến
dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi.
Bài học thứ sáu là làm thế nào để có
thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột
diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét