Home » thoisu
Thứ Ba, 19 tháng 2, 2019
Chiến tranh Việt-Trung 1979: Các bài học (phần 3)
Mục tiêu của Việt Nam trong cuộc chiến
biên giới là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ; tiếp tục ủng hộ nhân dân Campuchia
tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot đồng thời bảo vệ được sườn phía nam đất nước;
bảo vệ được tính độc lập trong chính sách đối ngoại; giải quyết các tranh chấp
thông qua đàm phán hòa bình. Hầu hết các mục tiêu này đều đã đạt được. Về tầm
nhìn chiến lược, Việt Nam đã thành công trong cứu mình, cứu dân tộc Campuchia
khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ. Dù muộn mằn nhưng thế giới cũng đã nhìn nhận
lại những cống hiến của Việt Nam trong đấu tranh chống tội ác diệt chủng của
Pol Pot và giúp dân tộc Campuchia hồi sinh trong nền hòa bình lâu dài. Quân
tình nguyện Việt Nam đã đưa ra một thực tiễn sống động, đặt nền móng cho lý
thuyết can thiệp nhân đạo mà thập niên 1990 Liên Hợp Quốc và các nước phương
Tây áp dụng. Xét từ góc độ lý thuyết, trường hợp Campuchia là kết quả hoàn hảo
của can thiệp nhân đạo từ ngoài vào, trong đó quốc gia được hỗ trợ đã hồi sinh
và phát triển mạnh mẽ trong hòa bình trong khi các trường hợp Aghanistan, Iraq,
Nam Tư cũ, Syria với sự can thiệp của Mỹ, phương Tây, NATO, Nga đến nay vẫn
chưa giải quyết xong hậu quả.
Tuy nhiên một lần nữa, lịch sử lại nhắc
lại các bài học đáng giá cho Việt Nam:
Bài học cảnh giác và lợi ích quốc gia
trên hết. Niềm tin vào những người anh em cùng chung ý thức hệ đã làm Việt Nam
mất cảnh giác, không tin bị tấn công trong cả hai cuộc chiến biên giới Tây Nam
và phía Bắc. Cuộc chiến 1979 cho thấy trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia
là cao nhất, trên cả tinh thần quốc tế vô sản và nhiều khi các bên sẵn sàng sử
dụng vũ lực để đạt mục tiêu chính trị. Henry J. Kenny nhận xét: “Dù có một điều
nhìn chung được công nhận là Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự
trong năm 1979, điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một
bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng
vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các
lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc”.
Trung Quốc có thể đã nhận được những
bài học và tổn thất về mặt chiến thuật tại chiến trường Campuchia và chiến
tranh biên giới với Việt Nam năm 1979 nhưng sự kiên trì ngoại giao của Bắc Kinh
đã giúp họ đạt được phần lớn các mục tiêu chính trị sau một giai đoạn chiến lược.
Không phải vô cớ, Trung Quốc đã kiên trì kéo dài cuộc chiến ở biên giới phía Bắc
tới tận năm 1989 trước khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Trung Quốc đã tận
dụng tốt thời gian 10 năm Mỹ ủng hộ vật chất, khoa học kỹ thuật làm đối trọng với
Liên Xô để vươn lên thành cường quốc thứ hai thế giới và hiện đại hóa quân đội.
Trung Quốc cũng đã thành công trong việc bao vây, cô lập và kìm hãm kinh tế Việt
Nam. Chiến tranh biên giới 1979 là không thể tránh khỏi, khi Trung Quốc đã quyết
tâm sử dụng biện pháp quân sự để đạt mục tiêu chính trị. Câu hỏi chỉ còn là làm
thế nào, trong các hoàn cảnh tương tự, khôn khéo hạn chế thấp nhất những hậu quả
không mong muốn và tránh được những cuộc chiến trong tương lai?
Bài học tự cường, độc lập trong các
quyết định. Là nước nhỏ, Việt Nam rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước khác,
cần đồng minh trong các mối quan hệ quốc tế song cũng cần tỉnh táo không
nghiêng về bên nào, không đánh đổi độc lập chủ quyền lấy một sự giúp đỡ vật chất
hay tinh thần. Cuộc chiến 1979 là hậu quả của hai trục quan hệ, ở cấp khu vực
là Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc, ở cấp quốc tế là trục Trung Quốc – Liên
Xô – Mỹ. Hiệp ước Việt – Xô 1978 đóng vai trò phụ trong cuộc chiến. Liên Xô chỉ
tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chưa sẵn sàng dùng quân đội giúp Việt
Nam chống xâm lược. Bằng sự độc lập, tự cường và lòng yêu nước cao độ của mình,
Việt Nam đã thoát khỏi thế là con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Cuộc chiến
đấu của Việt Nam đã được nhiều nước trên thế giới đồng tình, ủng hộ không vụ lợi.
Chiến tranh 1979 đã tạo cảm hứng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam những
năm sau này; muốn làm bạn và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt ý thức hệ, thể chế, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng luật quốc tế. Đó cũng là tiền đề cho chính sách
“ba không” của quốc phòng Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự,
không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt
căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.”. Đây là
sự phát triển đã được đúc kết trong các sách trắng quốc phòng 1998, 2004 và
2009.
Bài học chung sống với các nước láng
giềng. Việt Nam cần áp dụng nhuần nhuyễn kinh nghiệm chung sống từ lịch sử của
cha ông. Một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với
anh hàng xóm to lớn”. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Việt Nam đã không
tiến hành truy kích, một quyết sách giống như Lý Thường Kiệt mở đường cho đội
quân của Quách Quỳ về nước năm 1077 hay Nguyễn Trãi ở Hội thề Đông Quan 1427 mở
đường cho Vương Thông về nước. Chính trong những ngày tháng ác liệt nhất của
chiến tranh biên giới 1979-1989, quyết định tưởng như không tưởng về tìm đường
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đã dần được hình thành.
Bài học phải tận dụng mọi thời cơ để
giảỉ quyết dứt điểm vấn đề biên giới lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình ổn định
để phát triển đất nước. Tranh chấp biên giới lãnh thổ luôn là ngòi nổ cho hầu hết
các cuộc chiến tranh. Khía cạnh tranh chấp biên giới đã bị các yếu tố khác của
cuộc chiến làm lu mờ nhưng thực sự đó là vấn đề lớn. Vì vậy một trong những nhiệm
vụ đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ là đàm phán giải quyết biên giới lãnh
thổ.
Bài học về xây dựng đất nước. Muốn
xây dựng đất nước phải giữ cho được “trong ấm ngoài êm”. Việt Nam mạnh lên mới
có thể bảo đảm tránh được các cuộc xung đột vũ trang, mới có tiếng nói và tự
quyết định vận mệnh mình. Chính sách đối ngoại của Việt Nam phải tạo được môi
trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng tiềm lực
cho đất nước.
Các bài học này có những mối quan hệ
tương hỗ lẫn nhau. Việc bình thường hóa và tập trung giải quyết vấn đề biên giới
chính nhằm mục tiêu tạo môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển một Việt
Nam hùng cường trong tương lai.
Cuộc chiến 1979 là một vết đen trong
quan hệ hai nước anh em, đã từng sát cánh giúp đỡ nhau trong đấu tranh giành độc
lập. Quan hệ hữu nghị không thù nghịch giữa nhân dân hai nước không dễ thay đổi
và một lần nữa lại vượt lên những bất đồng. Song nó không còn là quan hệ như
trước vì vẫn còn tồn tại những bất đồng về đánh giá cuộc chiến. Sau bình thường
hóa quan hệ năm 1991, hai nước thỏa thuận không tuyên truyền nhiều về cuộc chiến
1979, không kỷ niệm chính thức cuộc chiến. Trung Quốc không muốn gợi lại cuộc
chiến với những yếu kém của quân đội; không muốn có những bằng chứng liên quan
đến Khmer Đỏ khi Tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt chủng; không muốn gây lại
thù hằn với Việt Nam, đẩy nước này xích lại gần Mỹ. Việt Nam không muốn lại tái
hiện tình thế nằm giữa hai gọng kìm trên bộ và biển; không muốn bị cô lập với
thị trường lớn thứ hai thế giới và đóng vai trò quan trọng trong trao đổi
thương mại; không muốn các thế lực bên ngoài lợi dụng chủ nghĩa dân tộc gây mất
ổn định. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 19/2/2014 đã phát biểu: “Đảng, Nhà nước
không bao giờ quên công lao của đồng chí, đồng bào chiến đấu, hy sinh để giành
thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới xâm lược của Trung Quốc …Các hoạt động
kỷ niệm cũng phải tính có lợi cho đất nước nhất”.
Lịch sử là lịch sử. Những bài học rút
ra từ hai phía là cần thiết, không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để tránh những
sai lầm lặp lại, vun đắp cho tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng anh em.
Trong giai đoạn này, biên giới Việt –
Trung trở lại vai trò phong vũ biểu phản ánh quan hệ xa gần giữa hai nước. Vấn
đề biên giới đã bị chính trị hóa, đẩy từ xung đột lên chiến tranh. Cả hai bên đều
không muốn những tác hại không lường được của cuộc chiến với mình, nhất là trường
hợp của Việt Nam, song cũng không thể tránh khỏi cuộc chiến do tác động của các
lực đẩy toan tính chính trị từ bên ngoài và trong nội bộ mỗi nước. Mối quan hệ
địa chính trị lâu đời một lần nữa vẫn là dòng chảy chính để hai nước xếp lại bất
đồng./.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét