Home » biendao
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019
Chớ nên đổ lỗi cho bên ngoài khi tình hình Biển Đông xấu đi (phần 2)
(BDN) - Ba là, nhận định về cạnh tranh quyền chủ đạo trong cuộc đọ sức quân sự và trật tự khu vực, bài viết cho rằng, hành động khiêu khích quân sự của Mỹ và các đồng minh nhằm vào Trung Quốc ở Biển Đông sẽ ngày càng tăng lên. Theo đó, bên cạnh tăng cường hoặc nâng cấp hoạt động tự do hàng hải, Mỹ sẽ gia tăng sự hiện diện quân sự ở Biển Đông để kiềm chế Trung Quốc. Nhật Bản đã coi vấn đề Biển Đông là cơ hội để gia tăng ảnh hưởng ở khu vực. Đại cương kế hoạch phòng vệ Nhật Bản (12.2018) tuyên bố trong vòng 5 năm tới sẽ cải tạo tàu sân bay trực thăng JDS Izumo (DDH-183) thành tàu sân bay chở máy bay chiến đấu F-35B, điều này không những nâng cao năng lực điều chuyển lực lượng quân sự của Nhật Bản tới Biển Đông, mà còn làm cho ảnh hưởng quân sự và chính trị của Tokyo được nâng cao một cách thực chất. Trước sự lôi kéo của Mỹ, không loại trừ khả năng Australia và Anh tiếp tục có các hành động quân sự mang tính khiêu khích nhằm vào Trung Quốc ở Biển Đông. Đáng chú ý là, sau khi liệt kê hoạt động của các nước nói trên, bài viết lại cho rằng, hoạt động quân sự và bố trí lực lượng của Mỹ và các đồng minh ở Biển Đông “có thể có được sự phối hợp chặt chẽ của một số nước trong khu vực”, làm cho yếu tố an ninh quân sự ở Biển Đông trở nên khó lường hơn. Cách viết rất mập mờ này là có chủ ý, nhưng không khó để người ta nhận ra rằng, bài viết đang nhắm đến các nước đang có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Ở đây cần phải nói rõ hơn nữa về chính sách đối ngoại quốc phòng của Việt Nam để tác giả bài viết của Trung Quốc hiểu rằng, không có chuyện Việt Nam ủng hộ hay liên minh với Mỹ và các đồng minh của Mỹ để chống lại Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Ngày 25.06.2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Quốc phòng (Luật số 22/2018/QH14), có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2019, gồm 7 chương, 40 điều. Tại khoản 3, Điều 4, Chương I có ghi: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc….”. Chính sách trên thể hiện bản chất chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, hướng đến sự hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới. Chính sách quốc phòng, quân sự, xây dựng quân đội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Việt Nam chỉ nhằm mục đích duy nhất là để bảo vệ Tổ quốc. Ngoài mục đích đó, chính sách quân sự của Việt Nam không có mục đích nào khác.
Trên thực tế, đi liền với sự ổn định, phát triển kinh tế của đất nước những năm qua, cùng với chiều sâu và thực chất trong mối quan hệ với các nước lớn về lĩnh vực quốc phòng, Việt Nam đang dần dần từng bước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các hoạt động mua sắm vũ khí, trang thiết bị những năm qua của Việt Nam đều nằm trong chính sách đối ngoại quốc phòng và chỉ nhằm mục đích tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Hoàn toàn không có chuyện Việt Nam giúp đỡ Mỹ và đồng minh của Mỹ để chống lại Trung Quốc hay ai đó trong vấn đề Biển Đông.
Bốn là, theo bài viết, do chịu ảnh hưởng từ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) trong vụ kiện Trung Quốc của Philipppin về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, cộng thêm các nước bên ngoài gây chia rẽ, các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông như Việt Nam, Malaysia... với những tính toán của riêng mình, nên sẽ không tỏ ra tích cực đối với các chương trình hợp tác trên biển do Trung Quốc khởi xướng. Thậm chí bài viết còn cho rằng, để tránh các hành động nhằm thúc đẩy các yêu sách chủ quyền trên biển của mình trong tương lai bị kiềm chế, các nước trong đó có Việt Nam sẽ nắm bắt thời gian trước khi COC được ký kết, bố trí trước, đẩy mạnh các hành động đơn phương ở Biển Đông. Cách nhìn nhận và đánh giá này rõ ràng là mang tính áp đặt, “suy bụng ta ra bụng người”, thể hiện sự thiếu niềm tin chiến lược trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông của một số giới nghiên cứu, học giả Trung Quốc. Thực tế cho thấy, nhìn một cách tổng thể, hiện nay khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang đối mặt với những thách thức an ninh rất phức tạp, trong đó có sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước, nhất là các nước lớn. Bên cạnh đó, do châu Á - Thái Bình Dương có vị trí địa - chiến lược ngày càng cao, sức hút ngày càng tăng nên sự cạnh tranh lợi ích chiến lược giữa các nước ngày càng quyết liệt hơn. Cạnh tranh diễn ra phức tạp với tầm mức cao hơn, cả toàn cầu và khu vực; mở rộng trên nhiều lĩnh vực, cả chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, tài nguyên, môi trường, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, không gian mạng; liên quan đến cả an ninh truyền thống và phi truyền thống. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên là sự phát triển và thay đổi nhanh chóng về tương quan lực lượng; sự khác biệt về lợi ích chiến lược; sự không nhất quán giữa lời nói và hành động; cách hành xử theo lối chính trị cường quyền, áp đặt, theo đuổi lợi ích vị kỷ, không thừa nhận và tôn trọng lợi ích chính đáng hợp pháp của các nước khác, cũng như lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế... Chính những điều này dẫn đến tiềm ẩn những nguy cơ xảy ra xung đột và trong bối cảnh toàn cầu hóa, liên kết ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, nếu xung đột xảy ra sẽ dẫn tới những hậu quả khôn lường, không chỉ ảnh hưởng đến các quốc gia trực tiếp liên quan mà còn tác động đến cả khu vực và thế giới. Để giải quyết các thách thức này thì việc ứng xử và hành động của các nước lớn có vai trò rất quan trọng. Các nước lớn cần gánh vác trách nhiệm cao hơn trong các nỗ lực chung của khu vực, hành xử gương mẫu trong quan hệ quốc tế. Việc các bên liên quan ngồi lại với nhau, đối thoại để cùng tìm giải pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng là hành động tích cực, cần được ủng hộ, cổ vũ. Là một nước trong khu vực, Việt Nam luôn chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước; tham gia bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh của khu vực và thế giới theo hướng “giải quyết tranh chấp trong không khí hòa bình, với tinh thần đối tác, vì trách nhiệm cộng đồng”.
Về vấn đề Biển Đông, có thể cho rằng, đây là một trong những khu vực chứa đựng đầy đủ các lĩnh vực cạnh tranh cả về kinh tế, quân sự, ngoại giao... tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Song nếu các quốc gia cùng tuân thủ luật pháp quốc tế, có trách nhiệm và thiện chí, thì Biển Đông sẽ trở thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam đánh giá cao những tiến triển trong đàm phán COC, đồng thời nhấn mạnh việc sớm xây dựng một COC thực chất, ràng buộc, hiệu quả sẽ góp phần quan trọng duy trì hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không ở Biển Đông.Trong tiến trình này, Việt Nam mong muốn các bên liên quan tăng cường đối thoại, tham vấn, cùng nhau quản lý rủi ro và ngăn ngừa xung đột. Việt Nam đã, đang và sẽ hợp tác với Trung Quốc và các nước có liên quan, kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Việt Nam ủng hộ các cơ chế hợp tác khu vực hiệu quả do ASEAN dẫn dắt, như Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN và Diễn đàn Biển ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng... và các cơ chế khác, như Đối thoại Shangri-La, Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh, Hội nghị An ninh quốc tế Moskva… vì các cơ chế này đã và sẽ góp phần quan trọng trong kiểm soát bất ổn, cạnh tranh và ngăn ngừa xung đột. Việt Nam hoan nghênh và đánh giá cao việc cộng đồng quốc tế có những đóng góp xây dựng nhằm bảo vệ an ninh, an toàn hàng hải và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông; phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật và thực tiễn quốc tế, trong đó có UNCLOCS 1982, tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với luật pháp quốc tế, triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả DOC và khuyến khích các bên xây dựng COC.
Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang có sự khác biệt đối với vấn đề Biển Đông. Song quan điểm giải quyết của Việt Nam khá rõ ràng: Đối với các vấn đề liên quan đến hai nước Việt - Trung thì giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các bên khác thì các bên cùng nhau giải quyết. Trong khi chờ đợi một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông, các bên liên quan cần nghiêm chỉnh thực hiện DOC, nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không làm phức tạp hóa tình hình, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Theo cách tiếp cận ấy thì cho dù giữa Việt Nam và Trung Quốc còn có sự khác biệt về vấn đề Biển Đông, nhưng nếu hai bên tiếp tục duy trì hòa bình và hợp tác vì lợi ích chung thì nó sẽ tạo nền tảng và cơ sở để hai bên thu hẹp bất đồng, từng bước giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, không để xảy ra xung đột.
Việt Nam tin tưởng rằng, Trung Quốc luôn ý thức về vai trò nước lớn của mình ở khu vực, lại đang khởi xướng ý tưởng xây dựng “cộng đồng chung vận mệnh”, nên sẽ ủng hộ, cùng các nước biến điều đó thành hiện thực, góp phần giải quyết tranh chấp biển trong không khí hòa bình với tinh thần đối tác vì trách nhiệm cộng đồng. Chúng ta hãy cùng chờ xem.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét