Home » biendao
Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2019
Hướng tới một kế hoạch chi tiết cho bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (phần 1)
Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN đã ký Tuyên bố về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (DOC). Theo đó, các bên tham gia ký tuyên bố nhất trí rằng “…các bên liên quan tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang các tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, trong đó bao gồm cả việc kiềm chế các hoạt động đưa người ra các đảo, đá, bãi cạn và các vị trí không có người ở hiện tại và xử lý các khác biệt một cách có xây dựng…”. Tuy nhiên,do tuyên bố này chỉ là một văn bản mang tính chính trị, không có tính ràng buộc pháp lý nên khi triển khai trên thực tế cho thấy,nó không mang lại hiệu lực, hiệu quả là bao nhiêu khi các nước tham gia ký tuyên bố liên tục có những hành động thay đổi hiện trạng tại khu vực tranh chấp trên Biển Đông, nhất là Trung Quốc. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) có tính ràng buộc pháp lý và có cơ chế giám sát hẳn hoi nhằm giúp kiểm soát hành vi của các bên và tránh những tính toán sai lầm gây bất ổn tại vùng biển trù phú này.
Sau nhiều năm thảo luận, đàm phán nhưng bất thành, từ cuối năm 2016, các cuộc tham vấn giữa Trung Quốc và ASEAN về một COC đã có dấu hiệu tiến triển và lấy được đà mới. Tháng 8/2017, hai bên đã tiến tới thông qua được một bộ khung cơ bản cho COC. Ngày 02/08/2018, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore tuyên bố, các bên đã đạt được thỏa thuận về một văn bản dự thảo đang thương lượng cho COC và ngày 14/11/2018, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí đưa ra cam kết thúc đẩy thương lượng về COC. Như vậy, lần đầu tiên sau nhiều năm “thai nghén”, một cơ chế mang tầm khu vực để quản lý các tranh chấp trên Biển Đông dường như có tiềm năng trở thành hiện thực và hy vọng là sẽ có hiệu quả để góp phần giảm thiểu những sự cố và rắc rối không đáng có có thể dẫn tới xung đột, chiến tranh. Nhưng, để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi tất cả các bên liên quan phải nhận thức được đúng vấn đề và thể hiện quyết tâm, ý chí chính trị đúng đắn, khách quan, khoa học của mình và phải đóng góp rất nhiều sự sáng tạo trong quá trình xây dựng COC.
Sở dĩ nói như vậy là vì COC giữa ASEAN và Trung Quốc được hiểu là một cơ chế (bộ quy tắc), thành phần quan trọng để quản lý các tranh chấp, nhưng phải thừa nhận là nó còn có những hạn chế nhất định vì mục tiêu hiện nay của bộ quy tắc này chưa phải là một giải pháp toàn diện cho giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Tiến trình COC đúng đắn nhất được xác định là trước mắt phải tập trung vào việc quản lý căng thẳng xung quanh các tranh chấp và loại bỏ các yếu tố gây xung đột giữa các bên liên quan. Mục tiêu cuối cùng, đương nhiên ai cũng mong muốn, là đưa ra được một giải pháp cuối cùng cho các tuyên bố chủ quyền và phân định ranh giới hàng hải theo luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982), nhưng điều này có lẽ phải chờ nhiều năm nữa mới đạt được. Do đó, để đạt được mục tiêu trước mắt trên, tất cả các bên tham gia COC phải thống nhất với nhau rằng, tiến trình xây dựng COC và các nội dung của nó sẽ không gây ảnh hưởng đến lập trường pháp lý hiện tại của các bên đối với tranh chấp.
Thứ nữa, vì tiến trình COC không chỉ có các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông tham gia và thực hiện, mà còn có sự tham gia của toàn bộ các nước thành viên ASEAN, nên COC giữa ASEAN và Trung Quốc cần phải làm rõ các khía cạnh của trật tự quốc tế dựa trên quy tắc, cũng như quy trình để quản lý các căng thẳng trong khi chờ đợi một giải pháp cuối cùng để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, để COC có hiệu quả thì phải có các cuộc đàm phán đa phương giữa các bên tuyên bố chủ quyền với nhau về việc quản lý nghề cá, hợp tác vì môi trường và phát triển dầu khí. Đây là những vấn đề quan trọng, nhạy cảm, dễ dẫn tới khả năng gây xung đột giữa các nước, trong đó các nước thành viên ASEAN không tuyên bố chủ quyền thì sẽ không có lợi ích trực tiếp. Cái khó là ở chỗ đó.
Để đạt được sự thỏa thuận vừa có tính thực tế, vừa hiệu quả, lại vừa được các bên liên quan chấp nhận, đòi hỏi phải có các sự thỏa hiệp cần thiết sao cho các bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông có thể điều chỉnh lập trường của mình mà không vi phạm luật pháp trong nước hay quốc tế. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp nhưng không phải là không thể nếu như tất cả các bên đều tận tâm và có thiện chí đối với ý tưởng này.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét