Home » hoptacdoingoai
Thứ Hai, 13 tháng 1, 2020
Việt Nam - Cuba: 60 năm cơ duyên lịch sử
Nhắc đến quan hệ Việt Nam - Cuba là nói đến mối quan hệ
truyền thống đặc biệt, vừa là đồng chí vừa là anh em. Sự gắn kết về lý tưởng
cách mạng cao đẹp của thời đại, đấu tranh vì độc lập tự do và giải phóng dân tộc
đã tạo nên sự đồng cảm, thấu hiểu giữa hai dân tộc ở cách xa nhau nửa vòng trái
đất, tạo nên nghĩa tình đi qua 60 năm thăng trầm của lịch sử, vượt cả giới hạn,
quy tắc thông thường trong quan hệ quốc tế.
Việt Nam và Cuba chia sẻ những nét tương đồng trong các sự
kiện quan trọng, không những làm thay đổi vận mệnh đất nước mà còn là nguồn cổ
vũ động viên to lớn đối với những cuộc nổi dậy của các dân tộc chịu áp bức trên
toàn thế giới. Trong những năm 50 của thế kỷ trước, hòa chung dòng chảy không
thể đảo ngược của phong trào đấu tranh chống thực dân và giải phóng dân tộc, Việt
Nam có chiến thắng Ðiện Biên Phủ vang dội địa cầu năm 1954, Cuba cũng có chiến
thắng ngày 1-1-1959 của nhân dân Cuba, một trong những sự kiện có sức ảnh hưởng
lớn nhất ở Mỹ la-tinh trong thế kỷ 20, làm thay đổi cục diện chính trị của khu
vực.
Không lâu sau cách mạng thành công, ngày 2-12-1960, Cộng
hòa Cuba đã trở thành nước đầu tiên ở Tây bán cầu thiết lập quan hệ ngoại giao
đầy đủ với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ðây không chỉ là sự kiện trọng đại
trong quan hệ giữa hai nước, mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với Chính phủ Việt
Nam non trẻ. Vượt qua khoảng cách địa lý và hoàn cảnh khó khăn, Cuba đã kề vai
sát cánh, hỗ trợ nhân dân Việt Nam như một người bạn chân thành, một người đồng
chí tin cậy. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam, Cuba
luôn đi đầu trong phong trào quốc tế ủng hộ Việt Nam, là nước đầu tiên trên thế
giới công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam, chấp thuận Phái
đoàn Ðại diện thường trú của Mặt trận (tháng 7-1962), bổ nhiệm Ðại sứ (tháng
3-1969) và là đại diện nước ngoài duy nhất thường trú bên cạnh Chính phủ lâm thời
cộng hòa miền nam Việt Nam...
Ðầu những năm 1960, khi Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, đồng thời cắt quan hệ ngoại giao và áp đặt cấm vận thương mại với
Cuba, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Fidel, Ủy ban Ðoàn kết với Việt Nam
ra đời, qua đó tình cảm đoàn kết với Việt Nam lan tỏa đến trường học, bệnh viện,
nhà máy, công trường, các lực lượng vũ trang và toàn thể người dân Cuba, trở
thành phong trào rộng lớn trên cả nước, với khẩu hiệu "Tất cả vì Việt
Nam". Không một nước nào trên thế giới như Cuba, nơi có hàng nghìn nhà
máy, trường học và khu phố mang tên các địa danh, các anh hùng chống Mỹ của Việt
Nam.
Là lãnh đạo cao nhất của Ðảng và Nhà nước, lãnh tụ Fidel
cũng tuần hành cùng toàn dân, thể hiện đoàn kết với Việt Nam. Fidel từng đưa ra
câu nói nổi tiếng "Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của
mình!". Vào thời khắc cam go trong cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam,
Fidel đã biến những chuyến công du nước ngoài thành những chuyến vận động chính
phủ và nhân dân các nước đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngày 16-9-1973, Fidel trở thành lãnh tụ nước ngoài đầu tiên và duy nhất tới
thăm vùng giải phóng Quảng Trị.
Nhân dân Việt Nam không quên những cán bộ, chuyên gia và
công nhân Cuba đã đến Việt Nam trong những tháng năm khói lửa: Ðó là những thủy
thủ Cuba chia lửa với nhân dân Việt Nam trong những ngày bom đạn trên cảng Hải
Phòng. Ðó là những công nhân, chuyên gia Cuba sát cánh cùng các chiến sĩ công
binh xây dựng đường Trường Sơn, ngày đêm lao động giúp xây dựng Bệnh viện Hữu
nghị Ðồng Hới, khách sạn Thắng Lợi... Các công trình Cuba viện trợ không chỉ là
những món quà quý giá về vật chất, mà còn thể hiện tình cảm đặc biệt của nhân
dân Cuba trong hoàn cảnh nước bạn cũng gặp muôn vàn khó khăn và phải nhận viện
trợ nước ngoài.
Không chỉ đồng hành trong những tháng năm chiến tranh
gian khó, Cuba còn kề vai, sát cánh với Việt Nam trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước, đối phó những hành động bao vây cô lập, cấm vận, chống phá
Việt Nam sau ngày chiến thắng. Cuba có vai trò rất quan trọng trong việc vận động
các nước Mỹ la-tinh ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc, tại khóa 32 Ðại hội
đồng Liên hợp quốc năm 1977.
Trong thời kỳ mới của cách mạng mỗi nước, Việt Nam tiếp tục
giành những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và
Cuba tiếp tục nỗ lực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cuba vẫn
phải đối mặt những khó khăn chồng chất. Là những người anh em, Việt Nam luôn
coi việc đoàn kết và ủng hộ hợp tác với những người anh em Cuba là nguyên tắc,
là mệnh lệnh trái tim của mỗi người Việt Nam, là truyền thống uống nước nhớ nguồn,
đạo lý của dân tộc Việt Nam thủy chung với bạn bè, đồng chí, anh em.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, giờ đây, hai nước đang đứng
trước những vận hội mới và cả những thách thức mới. Quan hệ đoàn kết truyền thống,
ủng hộ và hợp tác toàn diện Việt Nam - Cuba không ngừng được củng cố và phát
triển trên mọi lĩnh vực. Các đoàn đại biểu, ở cấp cao nhất của Ðảng và Nhà nước
ta đến các bộ, ngành, trong suốt những năm qua, gần đây nhất là Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã thăm Cuba. Lãnh đạo cấp cao Cuba cũng thường
xuyên thực hiện các chuyến thăm Việt Nam, có thể kể đến chuyến thăm của Chủ tịch
nước Cuba Miguel Diaz-Canel. Ðây là những dịp để lãnh đạo Ðảng và Nhà nước hai
nước đánh giá sự phát triển của quan hệ hai nước, thảo luận đường hướng mới, nhằm
không ngừng làm sâu sắc mối quan hệ truyền thống đặc biệt giữa Ðảng, Nhà nước
và nhân dân hai nước, vì lợi ích và vận mệnh của hai dân tộc.
Có thể khẳng định Việt Nam và Cuba có đầy đủ các yếu tố để
vun đắp mối quan hệ song phương tiếp tục phát triển bền chặt hơn. Cả hai nước đều
nhận thức được cơ hội và nhu cầu sát cánh bên nhau tại các diễn đàn quốc tế, bảo
vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bảo
vệ quyền và lợi ích của các nước nhỏ trong bối cảnh địa chính trị phức tạp, khả
năng can thiệp, áp đặt của các nước lớn. Trong khi Việt Nam đang bước vào giai
đoạn hội nhập sâu rộng hơn với thế giới, đã thông qua hàng loạt hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, thì Cuba sau thời gian nghiên cứu kinh nghiệm Việt
Nam và các nước bạn bè, cũng đang tập trung triển khai cập nhật hóa mô hình
phát triển kinh tế. Cả Việt Nam và Cuba thống nhất đánh giá hai nước là đối tác
quan trọng của nhau về kinh tế. Việt Nam được Cuba chọn là đối tác đầu tiên tại
châu Á để cùng nghiên cứu, đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại mới (tháng
11-2018). Hai bên cũng triển khai Chương trình nghị sự kinh tế song phương
trung hạn giai đoạn 2014-2019 và chuẩn bị ký chương trình cho giai đoạn
2020-2025. Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Cuba tại
châu Á, châu Ðại Dương và là nhà cung cấp gạo chủ yếu của Cuba, đồng thời hỗ trợ
Cuba phát triển sản xuất lúa gạo giúp Cuba từng bước bảo đảm an ninh lương thực...
Bước vào năm kỷ niệm lần thứ 60 ngày thiết lập quan hệ
ngoại giao Việt Nam - Cuba, chúng ta vô cùng tự hào về sự nghiệp cách mạng của
nhân dân hai nước và về mối quan hệ đoàn kết thủy chung giữa hai Ðảng, hai dân
tộc. Càng tự hào, chúng ta càng vững tin vào tương lai tươi sáng của mỗi nước
và của mối quan hệ đặc biệt gắn bó Ðảng và nhân dân hai nước suốt chặng đường
dài sáu thập kỷ qua. Chúng ta tin vào sức sống mãnh liệt của khẩu hiệu đã đồng
hành, tiếp sức cho hai nước trên mỗi chặng đường: Việt Nam - Cuba! Ðoàn kết nhất
định thắng!

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét