Home » biendao
Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020
Xu hướng theo chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông (phần 1)
Gần đây, trước bối cảnh
trên bàn hội nghị, Trung Quốc và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) nỗ lực đàm phán hướng tới việc cho ra đời Bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC), nhưng trên thực địa lại diễn ra những cuộc “rượt đuổi” lẫn nhau giữa
tàu thuyền của Trung Quốc với tàu thuyền của các nước trong khu vực như Việt
Nam, Malaysia,… báo chí trong khu vực Đông Nam Á đã có một số bài viết đưa ra
đánh giá tổng quát về tình hình khu vực Biển Đông là: Vai trò và vị thế của Mỹ ở
khu vực đang sa sút; trật tự dựa trên nguyên tắc đã được luật pháp quốc tế thừa
nhận đang suy yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ nghĩa xét lại và thái độ
quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh là nguyên nhân chính. Cách thức này đang
diễn ra ở Biển Đông có thể coi là một tiền lệ nguy hiểm cho các điểm nóng quân
sự khác trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đánh giá trên khiến giới nghiên
cứu khu vực và nhiều người quan tâm buộc phải đặt ra câu hỏi là chủ nghĩa xét lại
ở Biển Đông từ đâu mà ra và khu vực này nên làm gì để ứng phó với bất ổn ngày
càng tăng do thứ chủ nghĩa này mang lại?
Chủ nghĩa xét lại vốn
dĩ đã có từ lâu và đã từng hoành hành ở nhiều quốc gia, nhất là trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh. Nó gây ra không ít đau khổ, thiệt hại mà xét cho cùng là đổ
lên đầu người dân ở những nước có giới tinh hoa chính trị dung dưỡng nó. Những
tưởng nó đã bị người ta quẳng vào sọt rác lịch sử rồi. Thế mà, cớ sao sang đến
những năm đầu của thế kỷ XXI mà thứ chủ nghĩa này lại hiện diện ở Biển Đông mới
lạ. Lý giải cho vấn đề này, báo chí khu vực cho rằng có hai lý do: Một là,
trong những năm qua, trên khắp Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, sự phụ thuộc ngày
càng tăng về kinh tế đã cho phép quốc gia đang nổi lên trong khu vực là Trung
Quốc bắt đầu xét lại bản chất của các mối quan hệ quốc tế và trật tự dựa trên
nguyên tắc lấy sự tuân thủ luật pháp dựa trên hiệp ước quốc tế làm nền tảng.
Đây xem như là lý do chủ quan. Hai là, việc Mỹ “phớt lờ” khu vực này do bị chi
phối bởi cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, sau đó là cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2007-2008 đã tạo điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh chóng cán
cân quyền lực chính trị và sức mạnh quân sự của các nước khác tại khu vực này,
nhất là Trung Quốc. Rõ ràng đây là lý do khách quan.
Cần phải nói thêm một
chút về lý do chủ quan và khách quan trên. Về chủ quan, Trung Quốc là một nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, xét về mặt lý thuyết, đó phải là quốc gia có
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; có quan hệ đối ngoại bình đẳng với các nước;
sự phát triển của Trung Quốc cũng là sự phát triển của các nước khác, chứ không
phải vì lợi ích riêng của Trung Quốc. Nói như người Trung Quốc thường tuyên
truyền là “Trung Quốc đi trên con đường hợp tác để cùng thắng”. Đáng tiếc, những
điều tốt đẹp trên được thể hiện ở đâu đó, chứ nhìn vào những gì thể hiện qua
các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông thì không ai thấy, nghĩa là bản chất
đích thực về một chế độ xã hội chủ nghĩa trong quan hệ quốc tế mà nước này thường
tuyên bố là “hữu hảo, cùng thắng” đã không còn đúng nguyên nghĩa của nó. Còn về
lý do khách quan, chiến lược “tái cân bằng” sang khu vực châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ dưới thời cựu Tổng thống B.Obama đã bị “bắt bài” và trở nên vô dụng
do Mỹ không kiên quyết trong việc kiềm chế Trung Quốc, mà ngược lại đã thi hành
chính sách chủ nghĩa hòa bình với Bắc Kinh. Kết quả là, các chính sách theo chủ
nghĩa xét lại trái với luật pháp quốc tế, sự hăm dọa đối với các nước khác
trong khu vực của Trung Quốc ngày càng nổi lên.Trong khi đó, niềm tin của một số
nước trong khu vực vào sức mạnh và chiếc ô an ninh của Mỹ ngày càng giảm sút,
trật tự dựa trên nguyên tắc luật pháp quốc tế dần bị xói mòn, một môi trường hỗn
loạn và quân phiệt hơn đang lấp vào chỗ trống ở khu vực.
Từ đó, không khó để giới
nghiên cứu nhận ra hai biểu hiện nổi bật theo xu hướng của chủ nghĩa xét lại mà
Trung Quốc đã thực thi ở Biển Đông:
Thứ nhất, dựa vào tốc độ
phát triển kinh tế và tiềm lực quốc phòng, quân sự liên tục gia tăng, Bắc Kinh
ngày càng thể hiện thái độ tự tin, quyết đoán hơn trên cả bình diện khu vực lẫn
quốc tế.Thực tế cho thấy, trật tự khu vực bị “lung lay” có lẽ bắt đầu bằng cuộc
chiến chống khủng bố của Mỹ, những cạnh tranh lẫn nhau ở châu Á giữa Trung Quốc
và Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt hơn kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính
2007-2008. Chiến lược “Giấu mình chờ thời” với chính sách “gây cảm tình” ban đầu
của Bắc Kinh với các nước kể từ đó đã được thay thế bằng chiến lược “Xuất đầu lộ
diện” đi cùng những hành động mang tính hăm dọa nhiều hơn và vấn đề gây chia rẽ
lớn nhất giữa Mỹ, Trung trong khu vực Đông Á chính là những tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ ở Biển Đông.
Bất chấp mọi nỗ lực của
ASEAN, Trung Quốc đã vi phạm đáng kể các chuẩn mực theo Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC), sau đó nước này cũng liên tục vi phạm một cách trắng
trợn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) thông qua những
hoạt động như bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo trên quy mô lớn
ở Biển Đông.
Trong phạm vi khu vực,
việc Trung Quốc chiếm đoạt bãi cạn Scarborough từ tay Philippines vào năm 2012
là một sự kiện “mang tính bước ngoặt”. Mọi nỗ lực của Chính quyền Tổng thống
B.Obama trong việc dàn xếp để Bắc Kinh và Manila cùng rút khỏi bãi cạn này đã
thất bại. Tuy nhiên, điểm “chốt hạ” quan trọng là việc trong vòng trên dưới 3
năm, Bắc Kinh đã nhanh chóng xây dựng các đảo nhân tạo có diện tích gần 1.300
ha từ đầu năm 2013 đến năm 2016, giúp cho Trung Quốc dễ dàng triển khai các tiền
đồn quân sự cách xa bờ hàng trăm hải lý để kiểm soát “nhất cử, nhất động” trên
Biển Đông. Việc làm trên đã được một bài báo của Philippines ngày 31/07/2013 lần
đầu tiên “báo động sớm” về khả năng Trung Quốc bồi lấp các bãi cạn, đảo chìm ở
Trường Sa, nhưng phải đến tháng 02/2015, hình ảnh toàn diện về các đảo nhân tạo
mới được công khai. Vào thời điểm đó, Mỹ và các đồng minh của họ, dù vô tình
hay hữu ý, đã phớt lờ áp lực quốc tế yêu cầu họ phải ngăn chặn hành động xây dựng
đảo - chẳng hạn như phong tỏa bằng hải quân, khi vấn đề xây dựng đảo vào thời
điểm đó là sự đã rồi.
Thứ hai, lợi dụng sự
“co thủ” trong các hoạt động kiềm chế của các nước, Trung Quốc đã thực thi có hệ
thống nhiều biện pháp trái với luật pháp quốc tế để thực hiện tham vọng về chủ
quyền ở Biển Đông. Chính phủ Trung Quốc và truyền thông nhà nước này thường
xuyên tuyên truyền rằng, Bắc Kinh là “nạn nhân” của các chính sách kiềm chế phi
lý của Mỹ và đồng minh. Họ đưa ra một số dẫn chứng như việc đồn trú của lực lượng
lính thủy đánh bộ Mỹ ở Darwin/Australia, các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của
Mỹ ở Biển Đông... để “la làng” về sự “bắt nạt” của Mỹ. Tuy nhiên, hầu như không
có sự kiềm chế hiệu quả nào đối với các hành vi bất hợp pháp của Bắc Kinh ở Biển
Đông, vì thế họ càng liều lĩnh và trắng trợn hơn trong các hành động này. Có thể
điểm lại những vi phạm trắng trợn của Bắc Kinh đối với luật pháp quốc tế và trật
tự dựa trên nguyên tắc, thậm chí còn nặng nề hơn so với việc Bắc Kinh vi phạm
UNCLOS 1982.Đó là: Năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; năm
1988, đánh chiếm 6 đảo đá của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa; năm 2012, chiếm đoạt
bãi cạn Scaborough của Philippines bằng lực lượng quân sự. Ngoài ra, chưa kể
các hành động hỗ trợ tàu Hải Dương 981 xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa Việt Nam năm 2014; đánh cá trộm tại vùng biển Indonesia năm 2016; quấy
rối tàu thăm dò dầu khí của Malaysia tại bãi Luconia tháng 5/2019…

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét