Home » thoisu
Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2020
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh” - sự thật không thể bác bỏ
Kỷ
niệm lần thứ 30 Ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh/ Là thống
nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”. Điều đó, một mặt, nhằm khẳng định bản chất tốt
đẹp, nhân văn và tiến bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam; mặt khác, nhằm khích lệ,
giáo dục và yêu cầu mọi đảng viên của Đảng phải không ngừng tu dưỡng, phấn đấu
để Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”.
Những
năm gần đây, trước sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; sự thất thế
của nhiều đảng cộng sản và công nhân tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và
Liên Xô, thì việc xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản cầm
quyền ở những nước còn lại trở thành thủ đoạn phổ biến của các thế lực chống cộng,
nhằm làm mất uy tín, vị thế, vai trò của đảng cộng sản trong xã hội, tiến tới
xóa bỏ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia này. Đối với nước
ta, các thế lực chống cộng, phản động ở nước ngoài câu kết với những phần tử
thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, bất mãn ở trong nước cũng dùng mọi thủ
đoạn để công kích sự lãnh đạo của Đảng; trong đó, xuyên tạc sự thật lịch sử,
nói xấu, bôi lem hình ảnh Đảng Cộng sản Việt Nam là thủ đoạn được họ tích cực sử
dụng. Họ bỏ qua sự thật lịch sử những năm đầu thế kỷ XX để cho rằng Đảng Cộng sản
Việt Nam “tiếm quyền” lãnh đạo cách mạng của các lực lượng chính trị khác, nên “không
thể là đạo đức”(!). Họ phớt lờ những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng, cố tình khuếch đại một số sai lầm của Đảng trong thực tiễn
để chứng minh đó là “hành động vô đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Trước
thực trạng trong Đảng hiện nay có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, họ lớn tiếng “Đảng Cộng sản Việt Nam không
còn là đạo đức, là văn minh”(!). Nhân sự thoái trào tạm thời của phong trào xã
hội chủ nghĩa thế giới, họ cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa
Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, vẫn kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội là
“lạc hậu, không còn là một đảng tiến bộ, văn minh”(!), v.v. Mục tiêu hướng tới
của những luận điệu công kích này là làm mất uy tín, thể diện của Đảng Cộng sản
Việt Nam trước quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân xa rời Đảng; đồng thời,
gieo rắc sự hoài nghi, dao động trong đội ngũ đảng viên của Đảng, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội, tạo thời cơ để giành lấy chính quyền, đưa đất nước đi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Những luận điệu sai trái đó vô cùng nguy hiểm,
phải kiên quyết vạch trần, bác bỏ.
Trước
hết, cần khẳng định dứt khoát: không có chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam “tiếm quyền”
lãnh đạo cách mạng của các lực lượng chính trị khác. Nhìn lại lịch sử Việt Nam
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy: các phong trào Cần Vương,
Đông Du, Tây Du; các cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái; các cuộc vận động Duy
Tân, Đông Kinh nghĩa thục,… đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, nhưng
rốt cuộc đều lâm vào bế tắc và thất bại. Các tổ chức, đảng phái chính trị ra đời
trong thời kỳ này, như: Hội Phục Việt (năm 1925), Việt Nam Quốc dân đảng (năm
1927),... với nhiều cương lĩnh chính trị khác nhau, nhằm chiếm vũ đài lịch sử,
nhưng các ngọn cờ lãnh đạo của họ không vượt qua được sự đàn áp khốc liệt của
thực dân Pháp. Nguyên nhân khiến các phong trào và tổ chức đó không thể đi tới
thành công bởi các ngọn cờ mà họ giương lên không giải quyết được mâu thuẫn cơ
bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, không phù hợp với xu thế của thời đại,
nên không thể đoàn kết được toàn dân tộc. Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã
quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành độc lập, tạo ra bước
ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước, đánh dấu kết thúc thời kỳ khủng hoảng
đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Do vậy, không phải Đảng Cộng sản Việt
Nam “tiếm quyền”, mà chính lịch sử đã trao trọng trách lãnh đạo cách mạng cho Đảng
ta, sau khi đã khảo nghiệm một cách khắt khe những phương án chính trị của các
lực lượng chính trị đương thời. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
không chỉ là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, mà còn là nguyện vọng của tuyệt đại
đa số nhân dân, phù hợp với xu thế của thời đại; là ngọn cờ đưa nhân dân ta đến
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, nên điều đó chứng tỏ “Đảng ta là đạo đức, là
văn minh”.
Để
xem một đảng chính trị có “là đạo đức, là văn minh” hay không, người ta không
chỉ nhìn vào mục tiêu, lý tưởng, mà còn phải nhìn vào hành động của đảng đó. Đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam, 90 năm qua, kể từ khi bước lên vũ đài đấu tranh
chính trị (02-1930), dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử; “…nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc
lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận
nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”1 và hội nhập quốc tế. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc
gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế
và khu vực; đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với 16 nước, Đối tác toàn
diện với 11 nước (gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc); là
Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và
tiếp tục sứ mệnh này trong nhiệm kỳ 2020 - 2021. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta
đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, có quan hệ thương mại với 230
quốc gia và vùng lãnh thổ. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng
tăng lên. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, dựa vào viện trợ để đứng vững, nay
chúng ta đã đứng vào nhóm nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực và nhiều
mặt hàng khác. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ
hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn dưới 5% (theo chuẩn nghèo đa chiều)
hiện nay. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ
quyền quốc gia được giữ vững; nước ta đã tham gia vào Lực lượng Gìn giữ hòa
bình của Liên hợp quốc, v.v. Những thành tựu đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng
và là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; chứng tỏ sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
Nhìn
lại thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đúng là có thời điểm Đảng phạm sai lầm, khuyết
điểm do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Song, đó
chỉ là những nốt trầm lẻ loi trong bản trường ca hào hùng 90 năm lãnh đạo của Đảng.
Quan trọng hơn, trước mỗi sai lầm, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm,
nghiêm túc tự phê bình trước nhân dân, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, tự đổi
mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp tục lãnh
đạo cách mạng tiến lên. Đúng như Bác Hồ đã nói: “Một đảng có gan thừa nhận khuyết
điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như
thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”2, tức là một Đảng “đạo
đức, văn minh”. Hiện nay, nhận thấy thực trạng có một bộ phận cán bộ, đảng viên
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng và niềm tin của nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời ban
hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với một hệ
thống giải pháp rất quyết liệt. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã đặt nhiệm vụ xây dựng
Đảng về đạo đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Các nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII) được thực hiện một cách
kiên trì, kiên quyết, làm thổi bùng ngọn lửa đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Chỉ tính từ sau Đại hội XII đến tháng 10-2019, hơn 70
cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý đã bị xử lý kỷ luật, một số cán bộ
cấp cao đã bị xử lý hình sự. Đó là chưa kể hàng nghìn cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức ở các cấp dưới bị xử lý. Kết quả đấu tranh chống tham nhũng,
tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, không có vùng cấm đã góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời, là minh chứng khẳng định việc làm đó
của Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”.
Mặc
dù hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì lấy
chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng không phải là “sự bảo thủ, lạc hậu”.
Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không có nguyên nhân từ học
thuyết này. Đây là điều mà nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô thời kỳ đó thừa nhận qua
hồi ký và phát biểu của họ. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ bắt
nguồn từ chủ nghĩa giáo điều, xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ
chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở
đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Do vậy, đây là sự
sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - “mô hình xô-viết”, chứ không phải là
sự sụp đổ học thuyết Mác – Lê-nin. Mặt khác, những thay đổi của thế giới ngày
nay vẫn chưa vượt khỏi những quy luật mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khái quát,
nên học thuyết này vẫn là lý luận khoa học, cách mạng, giá trị nhất trong việc
giải thích và cải tạo thế giới. Bản thân Giắc-cơ Đê-ri-đa, triết gia hiện đại
có uy tín ở Mỹ và Pháp, cũng kêu gọi nhân loại “Trở về với Mác”. Ông cho rằng:
nhân loại “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của
Mác”3. Còn Đi-đi-ê Ê-ri-bông, nhà chính luận Pháp khẳng định: sức sống mãnh liệt
của học thuyết Mác là bất diệt và vai trò dẫn đường thời đại mới vẫn chính là
chủ nghĩa Mác4. Chả thế mà trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản trong việc giải
quyết các mâu thuẫn nội tại của mình, nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ (năm 2008), nhiều người trong xã hội tư bản, kể cả
một số nhà lãnh đạo các nước phương Tây, đã tìm đọc các di sản của C. Mác. Đối
với cách mạng Việt Nam, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta
giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, có một nguyên nhân cơ bản là Đảng ta luôn
kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Sự kiên định đó luôn gắn với sự vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều
kiện của Việt Nam. Ngay sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không chỉ là
sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân như các đảng cộng sản
khác, mà còn kết hợp với phong trào yêu nước. Quá trình xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam cũng không chỉ là quá trình xây dựng bản chất giai cấp công nhân
như quân đội các nước xã hội chủ nghĩa khác, mà còn gắn liền với bồi dưỡng tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, v.v. Chính vì thế, tổng kết 30 năm đổi mới,
Văn kiện Đại hội XII đã rút ra bài học số một là: “phải chủ động, không ngừng
sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng
kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”5. Sự kiên định như thế “là đạo đức,
là văn minh”.
Để
Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”, chúng ta cần tạc ghi trong lòng Di
huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cần
nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, cùng Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; coi đó là việc làm tự giác, thường
xuyên, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” bằng những hình thức phong phú, sáng tạo. Đó là cách làm thiết thực để kỷ
niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét