Home » hoptacdoingoai
Thứ Ba, 3 tháng 3, 2020
EVFTA và EVIPA – Những nhiệm vụ và nỗ lực mới
Hai hiệp định EVFTA và EVIPA được Nghị viện châu Âu thông
qua sẽ mang lại nhiều cơ hội và cả những thách thức mới. Điều này cũng đặt ra
cho Việt Nam những nhiệm vụ và nỗ lực mới để tận dụng hiệu quả nhất các cơ hội.
Trong khi chờ đợi các thủ tục cần thiết về Quốc hội Việt
Nam phê chuẩn hai hiệp định và Nghị viện các quốc gia thành viên EU phê chuẩn
hiệp định EVIPA, các Bộ, ban, ngành, các địa phương và doanh nghiệp cần khẩn
trương xây dựng kế hoạch và các kịch bản, nhiệm vụ, giải pháp triển khai hiệp định
để có thể tận dụng tốt các cơ hội, đồng thời ứng phó với những thách thức có thể
phát sinh khi thực thi các hiệp định.
Để khai thác những động lực tích cực từ hai hiệp định, cần
chú ý tuân thủ và vượt qua các đòi hỏi rất cao liên quan đến bảo vệ sở hữu trí
tuệ, minh bạch môi trường kinh doanh, xuất xứ và chứng nhận xuất xứ hàng hóa,
các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, minh bạch thông
tin, bảo vệ môi trường. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch
vụ hàng hóa, cũng như chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam là yêu cầu quan trọng
hàng đầu trong thời gian tới. Các DN Việt cần nắm chắc nội dung và lộ trình cam
kết trong 2 Hiệp định; chủ động rà soát và tái cơ cấu đầu tư, lao động; áp dụng
công nghệ cao và cơ chế quản trị tiên tiến; cập nhật các hàng rào kỹ thuật từ
các thành viên EU để đáp ứng tốt và tận dụng được các cơ hội phát triển mới. Đồng
thời, cần vừa tập trung khai thác thị trường EU, vừa củng cố vị thế trên thị
trường sân nhà; đẩy mạnh liên kết và tăng cường vai trò các hiệp hội ngành
hàng…
Kinh nghiệm thực thi các cam kết WTO và các FTA trước đây
của Việt Nam cho thấy, các lợi ích suy đoán từ một hiệp định sẽ không đương
nhiên trở thành hiện thực; Các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết không tự
nhiên phát huy tác dụng nếu thiếu những nỗ lực lớn để thực thi các cam kết, hiện
thực hóa các lợi ích và xử lý thách thức liên quan.
Trong một FTA thế hệ mới như EVFTA, bên cạnh các cam kết
mang tính truyền thống về mở cửa/tiếp cận thị trường (mở cửa thị trường hàng
hóa, dịch vụ), số các cam kết mang tính quy tắc (rules), có ý nghĩa ràng buộc
cách hành xử chính sách của các bên, là rất lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực
liên quan tới thương mại, kinh doanh. Việc thực thi các cam kết có liên quan tới
trình tự, thủ tục hành chính này đòi hỏi việc cùng lúc rà soát và điều chỉnh về
cơ chế, trong một số trường hợp còn điều chỉnh cả bộ máy và phương thức thực hiện,
trong các lĩnh vực khác nhau. Hơn thế nữa, phần lớn các cam kết dạng này đều phải
thực hiện ngay khi FTA phát sinh hiệu lực hoặc trong một thời hạn rất ngắn sau
đó. Điều này đặt ra thách thức lớn không chỉ về năng lực mà cả về nguồn lực thực
thi đối với Việt Nam.
Hơn nữa, để thực thi hiệu quả các cam kết từ góc độ các
nghĩa vụ bắt buộc, cần thiết phải thiết lập một cơ chế chung, thống nhất, ở cấp
Chính phủ với các mục tiêu như rà soát hệ thống pháp luật, để điều chỉnh đồng bộ
pháp luật, kiểm soát tiến độ, hiệu quả điều chỉnh pháp luật theo cam kết …Cách
thức vận hành của thiết chế này cũng cần được thiết kế phù hợp để bảo đảm khả
năng chỉ đạo thống nhất việc thực thi trên thực tế. Trên thực tế, với nguồn lực
hạn hẹp của Nhà nước cũng như nhận thức còn hạn chế của cộng đồng doanh nghiệp,
trong thương mại quốc tế, Việt Nam chưa tận dụng được đầy đủ các quyền của mình
từ các cam kết này, khiến những lợi ích kỳ vọng khi đàm phán không được hiện thực
hóa, trong khi những tác động bất lợi từ các cam kết lại chưa được hạn chế tối
đa. Việc hiện thực hóa các quyền trong cam kết FTA trên thực tế không chỉ đòi hỏi
những thay đổi về nhận thức hay năng lực, mà còn đặt ra những thách thức đáng kể
về mặt thiết chế/cơ chế, trong đó có về cơ chế minh bạch hóa thông tin để có thể
sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại; về thiết chế liên quan tới các hàng
rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ (SPS); về tư vấn, hướng dẫn, giải quyết vướng mắc
trong quá trình thực thi các cam kết, áp dụng cam kết, gắn trực tiếp với quyền
và lợi ích của các tổ chức, cá nhân liên quan. Hiện ở Việt Nam chưa có bất kỳ một
đầu mối hay thiết chế nào chính thức thực hiện việc tư vấn, hướng dẫn, giải quyết
vướng mắc cho các tổ chức, cá nhân (phần lớn là doanh nghiệp) trong những trường
hợp như vậy.
Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả thực thi EVFTA và EVIPA cần
chú ý rà soát các yêu cầu, thiết lập danh mục các vấn đề về mặt thiết chế cần
được xử lý; thiết lập và vận hành các thiết chế cần thiết cho việc bảo đảm thực
thi các nghĩa vụ và tận dụng hiệu quả các quyền theo cam kết; hỗ trợ nâng cao
năng lực, đóng góp kỹ thuật, thiết kế cơ chế và nguồn lực xây dựng, vận hành bộ
máy cho các thiết chế tương ứng phù hợp với tính chất, chức năng và bảo đảm
tính khả thi trong triển khai…
Với tính chất là một FTA thế hệ mới, với sự mở cửa toàn
diện, sâu rộng và có tác động mạnh nhất tới nền kinh tế Việt Nam và có vai trò
quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và 27 nước thành viên
EU, EVFTA và EVIPA đặt ra những thách thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong đàm
phán, mà cả trong quá trình thực thi, đặc biệt là từ góc độ thiết chế. Việc chuẩn
bị các yếu tố cần thiết, cũng như xây dựng các tiêu chí, dự liệu các giải pháp
để vượt qua các thách thức này là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể đạt
được những động lực và lợi ích kỳ vọng từ các hiệp định mới quan trọng này…

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét